ĐI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI


42) Hô Lô Hô Lô Hê L

 

Hô Lô Hô Lô Hê L. Hán dch là “tác pháp vô nim” cũng dch là “tác pháp t ti”. Trong câu chú Hô Lô Hô Lô Ma Ra đã ging trước có nghĩa là “tác pháp như ý”, khi tác pháp vn còn khi lên ý nim. Còn trong câu chú Hô Lô Hô Lô Hê L thì vng bt s khi nim khi tác pháp. Nếu khi hành trì n pháp này, mà còn khi nim tc là còn vng tưởng. Nếu hành gi không khi nim, tc là không còn vng tưởng nên đt được kh năng “tác pháp t ti” và tr thành người có năng lc “Quán T Ti”. Đó chính là v B tát thường quán sát âm thanh thế gian đ cu đ mt cách t ti, B tát Quán Thế Âm.

Câu chú này là Bo bát th nhãn n pháp, là n pháp th ba trong s bn mươi hai (42) th nhãn n pháp. n pháp này có công năng gii thoát cho chúng sanh khi nhng tai ương bnh hon.

Các v xut gia khi gp người bnh, trì chú này vào trong ly nước, cho người bnh ung thì có th được khi bnh. Nếu bnh không lành, thì phi quán sát li toàn b nhân duyên. Nếu gp duyên lành, khi quý v ung nước có trì chú Đi Bi thì lin được lành bnh, là do đã đt hết nim tin vào B tát Quán Thế Âm. Nếu không được lành bnh, có th là do quý v thiếu lòng tin nơi B tát.

S thc là như vy, nay tôi s truyn pháp này cho quý v luôn. Đ cho ly nước có trì chú Đi Bi, có được năng lc như vy, quý v không cn phi trì tng toàn văn bài chú này, mà ch cn trì tng câu “Hô Lô Hô Lô Hê L” năm ln ri dùng tay kiết n ba ln búng vào phía trên ly nước. Ri trao cho người bnh ung s được khi hn. Có khi bnh không lành, có khi bnh lành hn. Tt c đu tùy thuc vào nhân duyên gia hành gi và người bnh. Nếu quý v có nhân duyên sâu dày vi người bnh, thì khi h ung xong nước có trì chú Đi Bi lin được khi bnh. Còn nếu người bnh không có duyên vi hành gi, thì dù h có ung nước đã trì chú, nhưng vì h không có nim tin B tát Quán Thế Âm, thì bnh h không được lành hn.

Nói chung có vô lượng nhân duyên đ to thành pháp duyên cơ bn này. Nếu người bnh đã có công phu hành trì và phát tâm chí thành, khi ung nước có trì chú vào là lin khi bnh.

Còn nếu quý v có tu tp nhưng thiếu lòng chí thành, thiếu s tin tưởng vào chú Đi Bi thì dù ung nước đã trì chú cũng chng ích li gì. Còn nếu quý v có tâm chí thành và dù không tu tp đi na, thì khi ung nước đã trì chú cũng có được s li ích. Nhng người vn đã to nghip chướng sâu dày, nếu được ung nước đã trì chú vào thì không đ to nên năng lc đ chuyn hóa bnh ca h. Còn nếu người có nghip nh khi ung nước đã trì chú vào thì có th phát sinh năng lc to ln. Đó là năng lc do thường xuyên trì nim chú Đi Bi, đã to ra mt năng lc cm ng đo giao. Chính năng lc này đã cha lành bnh.

Thế nên bt lun trường hp nào, có trùng trùng duyên khi quyết đnh s thành công. Đng nghĩ rng: “Tôi đã hành trì Bo bát th nhãn n pháp, tôi đã trì chú Đi Bi vào trong nước, ti sao chng có chút nào hiu nghim? Đó chng phi là nước trì chú Đi Bi không có hiu nghim. Ch vì công phu ca quý v chưa được đc lc, nên hiu qu không được bao nhiêu.

Có mt s phái ngoi đo cũng dùng pháp trì chú Đi Bi vào nước đ cha bnh và đt được công hiu linh ng. Đó là vì h có s tr giúp ca loài thiên ma khiến cho người được lành bnh tin vào h, ri dn dt vào hàng quyến thuc ca thiên ma ngoi đo. Vì thế, tuy cũng hành trì mt pháp môn mà có thiên sai vn bit kết qu.

Dùng nước Đi Bi đ cha bnh cho người là mt pháp môn thc hành B tát đo. Nhưng quý v mun tu pháp này trước hết phi thc hành mi hnh nguyn ca hàng B tát. Phi luôn luôn gi tâm nim “vô ngã”, “vô nhân”. Nghĩa là trong tâm không còn bn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, th gi na.

Quý v đng nghĩ rng: “Tôi cha lành bnh ca chúng sanh được, khi tôi trì chú Đi Bi, tôi to ra được s cm ng vô cùng ln lao”.

Nếu quý v khi nim như thế, nghĩa là quý v đã khi dy ngã chp. Vi ngã chp y, lin b rơi vào ma chướng, dù quý v không có tâm nim ngã chp nhưng rt d b gp ma chướng khi tu tp pháp môn này. Bnh nào cũng do nghip chướng hoc  ma chướng. Nếu bnh vì nghip, thì chng có vn đ gì khi quý v cha tr cho h. Còn nếu bnh do ma chướng, khi quý v cha tr cho h có nghĩa là quý v tuyên chiến vi ma vương, nó có th hãm hi quý v. Nếu đo lc ca quý v chưa đy đ, quý v có th b thu phc vào cnh gii ca ma. Còn nếu quý v có được đo lc và to được đôi chút nh hưởng vi chúng, thì chúng s liên tc tìm mi cách đ đánh bi quý v.

Tôi vn thích cha bnh cho mi người nên khi có ai b bnh, tôi tìm mi cách đ cha cho h. Nhưng sau đó, tôi phi đi đu vi ma chướng rt trm trng. Mãn Châu, có mt loài thy quái mun dìm chết tôi, nhưng nó tht bi. Tuy vy, có 50 – 60 người b chết và hơn 800 căn nhà b thy quái này phá hy. Sau đó, trên đường đi t Thiên Tân đến Thượng Hi, loài thy quái đó li tìm cách lt thuyn ca tôi, ch chút xíu na là tôi biến thành thc ăn ca cá. T đó mi khi đi hong hóa đây đó, tôi thường ít khi cha bnh.

Thế nên cha bnh là cách tt nht đ kết duyên, nhưng đó cũng rt d kết oán vi quyến thuc nhà ma. Nó có đim tt và cũng có đim không hay. Nếu quý v làm vic đó mà tâm nim không vướng mc vào bn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, th gi thì quý v có th xoay chuyn mi tình hung. Còn nếu quý v không t chuyn hóa mi tâm nim ca chính mình khi bn tướng trên thì rt d rơi vào ma chướng. Cho nên, kết duyên vi chúng sanh qua vic cha bnh cho h là mt vn đ đòi hi năng lc tu tp rt cao.



ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI XUẤT TƯỢNG


42. Hô Lô Hô Lô Hê L


HULU HULU SHRI (HU LU HU LU SÍ RI)


BỔN-THÂN NGÀI TỨ-TÝ TÔN-THIÊN



Kệ tụng :


Tứ tý tôn thiên hiện thần uy

Nhất thiết tà ma vọng phong hồi

Quy y tam bảo quán tự tại

Tích công lũy hạnh thiện đức bồi



THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN PHÁP-BỬU

CHƠN-NGÔN-ĐỒ



Đức Phật lại bảo ngài A Nan: - Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát có ngàn mắt ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Đó cũng là do tâm Đại Bi của vị Đại Sĩ ấy hóa hiện. 


 PHỤ CHÚ .- Những chân-ngôn sau đây, chỗ có 2 vạch ngang (--) là chữ đọc kéo hơi dài ra, chữ có 1 vạch ngang (-) là hai chữ đọc hiệp lại làm một. Muốn cầu điều gì, đọc chân-ngôn theo điều ấy. 

 


42 Thủ Nhãn Ấn-Pháp


NAM MÔ BỔN-THÂN NGÀI TỨ-TÝ TÔN-THIÊN MA-HA-TÁT




Bảo-Bát Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Ba

Hô Lô Hô Lô Hê Lỵ [42]

Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị các thứ bịnh trong bụng, nên cầu nơi Tay cầm Bát-Báu.

 

Thần-chú rằng: Hô Lô Hô Lô Hê Lỵ [42] 


Chơn-ngôn rằng: Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra.

 


Kệ tụng :


Bát vạn tứ thiên bệnh ma triền

Bảo bát cam lộ khả ly thuyên

Bồ đề tát đỏa tự tại quán

Từ bi phổ độ hóa hữu duyên.



MAHAKARUNA DHARANI


 

42. HULU HULU SHRI 


HULU HULU SHRI  means “doing Dharma without thought,” and also “doing Dharma with comfort.” The “as-you-will” of HULU HULU PRA ( HU LU HU LU B RA) still retains “will” or “mind.” With HULU HULU SHRI (HU LU HU LU SÍ RI) not even a thought exists while doing Dharma. If you have a single thought, you have a false thought. If you have no thought, you have no false thought, and because you have no false thought you can “do Dharma with comfort,” and become the one who  “regards in comfort,” that is, the Bodhisattva Who Regards the World’s Sounds in Comfort.

This sentence of the mantra is the Jeweled Bowl Hand, the third of the Forty-two Hands. This Hand and Eye can relieve living beings of the pain of illness.

Some people who have left home, seeing that someone is sick, will mantra a cup of Great Compassion Water and give it to him to drink. After it is drunk, sometimes the illness is cured and sometimes it isn’t. It depends on your causes and conditions. If the conditions are right, when you drink the Great Compassion Water, you may be cured and then come to believe in the Bodhisattva Who Regards the World’s Sounds. If you aren’t cured, you may not come to believe in him.

The truth is--and now I’m transmitting a dharma to you--that in empowering the Great Compassion Water, you don’t need to recite the Great Compassion Mantra all the way through. You need only recite HULU HULU SHRI. Recite it five times and then blow three puffs of air over the water. Give it to the sick person to drink and his sickness will be cured. Sometimes he won’t be cured and other times he will get well right away. It all depends on what your affinities with the sick person are. If you have an affinity with him, when he drinks your Great compassion water he will be cured. If you have no affinity, he may drink it, but he won’t have any faith in it, and he won’t be cured.

 

LI BÀN:  

Qúi v ch cn trì tng câu Hô Lô Hô Lô Hê L năm ln ri thi ba lung không khí lên trên mt ly nước. Ri trao cho người bnh ung s được khi hn.

( You need only recite HULU HULU SHRI . Recite it five times and then blow three puffs of air over the water. Give it to the sick person to drink and his sickness will be cured.)


THE BUDDHISH TEXT

TRANSLATION SOCIETY

CITY OF TEN THOUSAND BUDDHAS

TALMAGE, CALIFORNIA

1976

 

In general, there are various conditions which make up the foundation of your Dharma affinities. If you are sincere and cultivate you may drink it and get well.

If you cultivate but are not sincere about the Great Compassion Water, you may drink it and not get well. If you are sincere about it and do not cultivate, you may drink it and get well all the same. Those with heavy karmic obstacles may drink the water, but it won’t have enough potency to cure their illness. Those with light karmic obstacles may drink the Great Compassion Water and it may carry great power. What power? The power obtained through your constant  recitation of the Great Compassion Mantra, which creates strength of Way-responsiveness and efficacy; this will cure the illness.

So, no matter what the circumstances, there are all kinds of causes and conditions which aid in its success. Don’t think, “I cultivate the Jeweled Bowl Hand and I mantra some Great Compassion Water, so why didn’t it work at all?” It’s not that the Great Compassion Water isn’t effective; it’s simply that your lack of skill detracted from its effectiveness.

Some externalist religions use the Great Compassion Water to cure illness with great success. Why is it so effective? It’s because heavenly demons are aiding the externalist cultivators so that other people have great faith in them and can easily be led into the ranks of the heavenly demons. Although it may be the same dharma which is cultivated, the surrounding circumstances may vary greatly.

Curing illness with Great Compassion Water is one way of practicing the Bodhisattva Way. But if you want to practice the Bodhisattva Way, you must first cultivate the conduct and actions of a Bodhisattva. You must have a heart which keeps no “self” or “others” and which retains no mark of self, no mark of others, no mark of living beings, and no mark of a lifespan.

Don’t think, “I can cure people’s illnesses, and when I recite the Great Compassion Mantra I elicit a great response.

 “If you think like that, you are attached, and having an attachment you may catch a demonic obstruction. Even without such thoughts, it’s easy enough to get a demonic obstacle when practicing this dharma, since most illnesses are caused either by karma or demons. If the illness is caused by karma, it’s no problem if you cure it. But if it’s caused by a demon and you cure it, the demon may come to possess  you, to make war on you. If your Way power is insufficient, if you have none to speak of, you may be led into the sphere of the demon. If you have Way power and if you create an affinity with the demon, he will continually  try to find a chance to come and defeat  you in battle.

I used to like to cure illnesses, and when anyone was sick, I would certainly find a way to cure them. But later I ran into a great demonic obstacle. In Manchuria, strange sea-monster demons tried to drown me. They didn’t succeed, but fifty or sixty people died in the flood they created, and over eight hundred homes were destroyed. Later, when I was on my way from Tiensin to Shanghai, the sea monsters tried to overturn the boat and I barely missed being turned into fish-food. After that, when I traveled inland, I seldom cured illnesses.

Curing illness is a good way to establish affinities. But it is also easy to create enmity among the demon-hordes. It has its good and bad points. If you can be without self, others, living beings, or a lifespan-- devoid of these four marks-- then you can pull it off. But if you cannot empty yourself of the four marks, it’s very easy to catch a demon obstacle. Establishing affinities through illness is a complicated matter.



MAHAKARUNA DHARANI ILLUSTRATIONS



42. HULU HULU SHRI 


This four-armed deity reveals an awesome spirit.

When the deviant demons observe that impressive magnificent air,

They take refuge with the Triple Jewel and start contemplating self-mastery.

Amassing merit and practicing good, they foster their virtue.



THE FORTY-TWO HANDS


3. The Jeweled Bowl Hand and Eye



The Sutra says: “For all internal illnesses, use the Jeweled Bowl Hand.”

The Mantra: Hu lu hu lu syi li.

The True Words: Nan. Jr li jr li. Wa dz la. Hung pan ja.



The verse :


The Jeweled Bowl’s sweet dew can extricate you from,
Entanglements with eighty four thousand sickness demons.
The Bodhisattva Who Contemplates in Comfort can,
With universal compassion, save all with whom he has conditions.


with the commentary of

 

THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA

 

Translated into English by

BHIKSHUNI HENG YIN

 

THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY

SAN FRANCISCO

1976


ĐẠI BI CHÚ

Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa

Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU

CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)

 

MAHAKARUNA DHARANI

Hòa-Thuợng THÍCH-THIỀN-TÂM dịch từ PHẠM-VĂN ra VIỆT-VĂN









Ẩn-Tu Ngẫu Vịnh

Như-Ý Giảng giải 

 

 

TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,

GÍO LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.

 

 

HÒA THƯỢNG TÔN SƯ

Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư  Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.


BÀI SỐ 19

 

Ẩn tu tế độ chẳng quên lòng !

BI, TRÍ đôi đường phải suốt thông

Y sĩ nhân tâm dù đã sẳn

Còn rành nhân thuật mới thành công !



  Nương mình tựa án xem NGƯỜI CỔ

ẨN BÓNG trong gương ngẫm chuyện đời


NHƯ Ý : Muốn thực hiện lòng nhân ái, tất phải có trước nhân ái  HOÀN BỊ,  ví như Y BÁC-SĨ tuy có tâm cứu đời, nhưng về Y THUẬT phải rành rẽ chắc chắn,  mới khỏi lầm lẫn làm CHẾT người, trái vi LÒNG NHÂN của mình.

Người tu PHẬT cũng thế, muốn thực hiện TỪ-BI, phải có đủ TRÍ-HUỆ (PHƯƠNG-TIỆN TÙY CƠ) muốn cứu độ chúng sanh trước phải CHỨNG vô-sanh.



Tiết 41 - PHẢI DIỆT NIỆM BUỒN CHÁN

 

Người hoài bão tâm thương đời, hay kẻ có lòng lo đạo, trên đường chí nguyện thường thường phải trải qua ba giai đoạn.

 

Giai đoạn thứ nhứt là tâm nhiệt THÀNH sốt sắng.

 

Giai đoạn thứ hai là niệm buồn rầu CHÁN nản.

 

Giai đoạn thứ ba là lòng BI-TRÍ tùy cơ.

 

Nhưng thông thường, những vị hữu tâm ấy hay bỏ cuộc và tiêu tán chí niệm ở đoạn hai, ít ai đi đến đoạn ba.

 

Vượt đoạn hai để đi đến đoạn ba là người có tâm BI-TRÍ rộng lớn, như con thần LONG khi bay lên mây xanh, lúc ẩn nơi lòng biển cả. Nhà Nho gọi điều này là: "dụng chi tắt hành, xả chi tắc tàng."

 

Đây là ý nói: "Bậc chân nho đời hữu đạo thì đem đạo LƯU HÀNH, đời vô đạo lại lui về ở ẨN." Như đức Khổng Tử khi đem đạo thánh hiền truyền hóa, các vua thời Đông Châu không ai chấp nhận, Ngài lui về viết sách dạy học trò, chí thương lo cứu đời không khi nào BỊ thối giảm.

 

Kẻ chưa thấu hiểu thời tiết cơ duyên, chưa suốt được đạo lý này, thường hay chán buồn bi phẫn!

 

( Niệm Phật Thập Yếu)

 

Kinh Duy Ma cũng nói:

 

 “Chính bịnh của mình còn không tự cứu được, đâu có thể cứu được bịnh cho kẻ khác.”

 

Luận Trí Độ cũng nói:

 

 “Ví như hai người, mỗi kẻ đều có thân nhân bị nước lôi cuốn; một người tánh gấp nhảy ngay xuống nước để cứu vớt, nhưng vì thiếu phương tiện nên cả hai đều bị đắm chìm. Một người sáng tỉnh hơn vội chạy đến lấy thuyền bơi ra cứu vớt, nên cả hai đều không bị nạn trầm nịch.”

 

Bậc Bồ Tát mới phát tâm vì chưa đủ nhẫn LỰC nên không thể cứu chúng sanh, cũng như người trước. Những vị Bồ Tát thường gần gũi Phật chứng được VÔ-SANH Nhẫn, mới có thể nhập thế và cứu độ vô lượng chúng sanh cũng như người sau.

 

Như trẻ thơ không nên rời mẹ, nếu rời mẹ thì hoặc rơi vào hầm giếng, té xuống sông đầm, hoặc đói khát mà chết. Lại như chim non chưa đủ lông cánh, chỉ có thể nhảy chuyền theo cành cây; đợi chừng nào lông cánh đầy đủ, mới có thể bay xa, thong thả vô ngại. Phàm phu không nhẫn lực, chỉ nên chuyên niệm Phật A Di Đà cho được nhất tâm, đợi khi tịnh nghiệp thành tựu, lúc lâm chung sẽ được Phật tiếp dẫn vãng sanh, quyết định không nghi.

 

Khi thấy Đức A Di Đà chứng quả Vô Sanh rồi, chừng ấy sẽ cỡi thuyền Pháp Nhẫn vào biển luân hồi cứu vớt chúng sanh, mặc ý làm vô biên Phật sự.

 

Cho nên bậc bi tâm hành giả, như muốn giáo hóa nơi địa ngục, vào biển trầm luân, nên chú ý đến nhân duyên cầu sanh Tịnh Độ. Điều nầy Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận gọi là Dị Hành Đạo.

 

( Tịnh Độ Thập Nghi Luận)

 

 

 KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT

(PHÁT NGUYỆN NIỆM-PHẬT THEO TRƯỞNG-GIẢ DIỆU-NGUYỆT)

 

NGHI THỨC

 

NIỆM-PHẬT 

ĐỌC TỤNG CHƠN-NGÔN



Đức Phật Thế-Tôn, Chánh Biến Tri
Tướng hảo đoan nghiêm đều viên mãn,
Rủ lòng đại từ bi vô hạn,
Mở bày đại pháp cứu quần mê.


NIỆM PHẬT hiện tiền đắc Phật tướng,
Thâm nhập cảnh giới bất tư nghị.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Quyết định một lòng xưng niệm Phật,
Hồng danh chứa nhóm vô lượng nghĩa,
Lợi lạc muôn ức chúng hữu tình.
Đức Phật Thế-Tôn, đấng Vô-thượng
Tri kiến, giác ngộ đều quang minh,
Rắc rải tuệ nhật khắp mười phương,
Rưới trận mưa pháp như Cam lộ.


NIỆM PHẬT vãng sanh cõi Cực-Lạc,
An nhiên chứng đắc Vô-Sanh-Nhẫn.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Gìn giữ thân tâm bằng Phật hiệu,
Hồng danh tỏ ngộ Chân Như Tánh,
Dẫn dắt chúng sanh vào Tam-muội.
Đức Phật Như-Lai đấng Bất-động
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đoạn thường,
Xa lìa chấp hữu hoặc chấp vô,
Tự tại chỉ bày phương tiện lực.


NIỆM PHẬT  an trụ nơi bản giác,
Tùy nghi hòa hợp với tánh Không.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Trang nghiêm tự thân bằng niệm Phật,
Hồng danh hiển phát Hư-Không-Tạng,
Tức thời thẳng vào Viên-giác-tánh.
Con nay xưng tán Đại Đạo-Sư,
Khen ngợi hồng danh vô lượng lực.


Nguyện đem hồi hướng khắp chúng sanh,
Mong cầu hết thảy cùng niệm Phật.


Nam-mô A-DI-ĐÀ Phật

(Tùy ý, hoặc 1 ngàn câu trở lên)

  

Nam-mô ÐẠI-HẠNH Phổ-hiền Bồ-tát 

( 3 lần)

 

BẠT NHỨT-THIẾT NGHIỆP-CHƯỚNG CĂN BỔN

ĐẮC SANH TỊNH-ĐỘ ĐÀ-RA-NI

 

NAM-MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA.

A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA. 

 

( 21 lần)

 

Nam-mô ÐẠI-BI Quán-Thế-Âm Bồ-tát

( 3 lần)

 

VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN


 

NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA. 

NAM MÔ A RỊ DA.  A MI TÁ BÀ DA.  TÁT THA GA TÁ DA.  A RA HA TI.  SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA.  TÁT DA THA. 

UM !  A MI RỊ TI.  A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ GA BÊ.  A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ.  A MI RỊ TÁ SI TÊ.  A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.

A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ.  A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI.  A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI.  SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI.  SẠT VA MA CA LI.  SA KHẤT SÁ DU CA LI.  SÓA HA. UM! BÚT RUM!  HÙM!

 ( 21 lần)


CHUNG

 

[

 

CHƠN-NGÔN LÀ  LỜI NÓI CỦA  PHẬT, BỒ-TÁT hay A-LA-HÁN... ĐÃ NHIỀU ĐỜI NHIỀU KIẾP KHÔNG NÓI LỜI VỌNG-NGỮ.

Cũng như Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM trong KINH ĐẠI-BI TÂM ĐÀ-RA-NI chẳng hạn:

 

“Nếu trong đời vị lai, TÔI (Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM) có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần CHÚ NÀY (chú Đại-Bi), thì xin khiến cho thân tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt.

Khi tôi phát thệ rồi, thì ngàn tay ngàn mắt đều hiện đủ nơi thân...”( ĐÂY LÀ CHƠN NGÔN).

 

UM! BÚT RUM!  HÙM!  "NHỨT-TỰ CHUYỂN-LUÂN VƯƠNG THẦN CHÚ", được phối-hợp vào CHÚ VÔ-LƯỢNG-THỌ này có công-năng làm cho các CHƠN-NGÔN này (nói riêng) và các chơn ngôn khác  mau được  HIỆU-LỰC và CHÓNG thành-tựu.

 

Lại  CHUYÊN NIỆM “ Nam Mô A Di Đà Phật”. Nghĩa là ngoài thời khóa kể trên, trong một ngày đêm, khi nào có thể liền nhiếp THÂN TÂM vào danh hiệu “NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT”, lâu ngày sẽ được NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT, mới biết diệu dụng của câu niệm phật “BẤT KHẢ TƯ NGHỊ”, không thể dùng văn tự ngôn ngữ SUY NGHĨ mà bàn luận biết được.  Cho nên, qúi vị phải hành trì cho thiết thật.

 

Lặng ngồi chốn tĩnh lâu
Trăng sáng, gió canh thâu!
Bát-Nhã hương lòng nhẹ.
Lăng-Già niệm ý sâu


Phật, Tâm chung một vẻ
Thiền, Tịnh chẳng hai mầu
Ngưng chuỗi, thầm riêng hỏi
Hoa đêm điểm điểm đầu...


( Niệm Phật Phải Hành Trì Cho Thiết Thật)

 

 

Tuy nhiên, nếu qúi vị thích chuyên trì “CHÚ ĐỊA-BI”, chuyên trì “ 1 THỦ-NHÃN”, chuyên “ THAM-THIỀN”, chuyên “TỤNG KINH”… thì cũng phải hành như “CHUYÊN” NIỆM PHẬT vậy).

]

 

Chuyên tụng một phẩm Kinh

Một Chân-Ngôn, hiệu Phật

Thì thành tựu các nguyện

Thỏa mãn các mong cầu

Chỉ sợ người không tin

 Hoặc tin mà không sâu

Lại ngại không thực hành

Hoặc hành không bền lâu

Hoặc tuy hành bền lâu

Không chí tâm khẩn cầu

 

Chí tâm là không vọng

Trì niệm quên thân tâm

Lặng lẽ dứt phân biệt

Không trong, ngoài, người, cảnh

Khi đi, đứng, thức, ngủ

Chẳng bỏ câu trì niệm

Lúc hưỡn, gấp, an, nguy

Cũng vững vàng trì niệm

Cho đến khi sắp chết

Vẫn như thế trì niệm

Ðắc, thất đều do đây

Cần chi hỏi tri thức

 

Không hành như trên đây

Phật cũng khó cứu vớt

Huống nữa là phàm Tăng

Giúp ích được gì đâu

 

Nhớ lời Cổ Ðức dạy:

 

“Ta có một bí quyết

Khẩn thiết khuyên bảo nhau

Là hết lòng THÀNH kính

Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”

Hãy ghi nhớ lời nầy

Lắng lòng suy gẫm sâu.

 

( PHÁP-YẾU-TU-HÀNH)

 

 


BÀI KỆ THỨ 6


 

Một Câu A Di Đà
Khi lâm chung Phật hiện
Tứ biện khó thân tuyên
Sáu phương đồng khen ngợi.

( Nhứt cú Di Đà
Lâm chung Phật hiện
Tứ biện thân tuyên
Lục phương cộng tán.)


LƯỢC GIẢI


Liên Trì Đại Sư nói: “Một câu A Di Đà gồm: Đại thiện căn, đại phương tiện, đại phước đức, đại trí huệ, đại giải thoát, đại từ bi. Câu niệm Phật đã có nhiều công đức lớn như thế, nên người niệm Phật mau diệt nhiều tội chướng, mau sanh nhiều phước huệ, khi lâm chung quyết định Phật sẽ hiện thân tiếp dẫn sanh về Cực Lạc.

Cho nên chư Phật sáu phương hiện ra tướng lưỡi rộng dài, tiêu biểu cho sự tuyên thuyết pháp môn tối thượng thừa, mà ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của Tịnh độ.

Đã là pháp môn công đức không thể nghĩ bàn; thì đức Thích Ca Mâu Ni và chư Phật dù đã dùng Tứ biện tài là: Từ vô ngại biện, Nghĩa vô ngại biện, Pháp vô ngại biện và Lạc thuyết vô ngại biện, cũng không thể tuyên dương ngợi khen cho hết được.




HOÀNG PHỦ SĨ PHƯƠNG

 

Hoàng Phủ Sĩ Phương, tự Tử Nghi, người ở Tiền Đường, gia thế chuyên nghề Y SĨ. Lúc trẻ tuổi Sĩ Phương đọc quyển Long Thơ Tịnh Độ Văn, giật mình tỉnh ngộ, quy hướng về Phật pháp. Từ đó ông cùng Tư Tề đại sư làm bạn phương ngoại, đồng tu tịnh nghiệp. Bình thời cư sĩ viết về Tịnh độ rất nhiều, nay xin lược trích vài đoạn thiết yếu như sau:

 

“…Môn Tịnh độ rất cao siêu mầu nhiệm, cũng rất giản dị dễ thật hành. Nếu kẻ nào phát tâm trì danh, cầu sanh về Cực Lạc, thì không luận sang hèn, trí ngu, nam nữ, trẻ già, đều được toại nguyện. Nhưng tiếc vì hàng phàm phu phần đông mê tối, căn trí thấp kém, nên sanh nhiều niệm do dự nghi nan.

 

Đại khái như nghi: mình từ kiếp trước đến đời nầy, tạo nhiều nghiệp bất thiện, công phu niệm Phật chẳng bao nhiêu, mà cảnh Tịnh độ lại quá mầu đẹp, e không đủ phước để vãng sanh.

Họ không biết tánh của tội chướng từ vô thỉ kiếp đến nay vốn hư giả. Nếu chuyên trì danh hiệu Phật, tất sẽ mau tiêu trừ những tội nặng trong nhiều kiếp sống chết. Ví như mây đen dù dầy đặc, sóng gió lớn thổi liền tan. Và như gian nhà tuy tối, nhưng đèn đốt lên liền sáng.

Mây đen với cảnh tối tăm vốn hư giả, nếu biết dùng gió mát và ánh sáng của tâm thanh tịnh mà niệm Phật, tất cảnh mây đen cùng tối tăm ấy sẽ tiêu trừ. Lại ví như tng đá dù to, được thuyền chở có thể sang đến bờ bên kia.

Và tội lỗi dù nặng, quyền lực của hoàng ân có thể tha bổng. SỨC tu hành của mình và SỨC nguyện của Phật đều rộng lớn khó nghĩ bàn, đại để cũng như thế.

…Kẻ học Phật nông cạn, thường đọa lạc vào cái “KHÔNG’ thiên lệch, chấp theo lý mà bỏ sự. Học cho rằng cõi Tịnh độ là quyền thuyết, tâm THANH TỊNH tức là Tịnh độ. Họ chưa hiểu các kinh Đại thừa đều nói ở mười phương có hằng sa vô biên cõi Phật.

Tâm cùng các cõi chẳng phải một, chẳng phải khác, các cõi DO tâm sanh, một tâm đủ các cõi. Cảnh diệu hữu mười phương tức là chân không, chân không là diệu hữu. Cõi Cực Lạc do công đức của tịnh tâm tạo thành, cõi TA-BÀ do nghiệp TRƯỢC ÁC của uế tâm hiển lộ.

Cảnh Cực Lạc phương Tây cũng hiện hữu như cảnh Ta Bà phương đông, đều ở trong thể rộng lớn của chân tâm, và cũng đều là hư danh, giả huyễn. Nghiệp ái luyến nặng thì đọa ở Ta Bà, tâm niệm Phật chuyên tất sanh về Cực Lạc.

Tâm có nhơ sạch, thì tùy theo chỗ ứng hợp của nó mà sanh về. Như vầng trăng soi khắp các dòng nước, nước trong thì trăng tỏ, nước đục tất trăng mờ. Trăng ví như tâm bản lai, nước ví như các thế giới.

Một tâm bao hàm muôn cõi, đừng nghĩ là có hay không, hư hoặc thật, bởi vì sự cùng lý xưa nay vốn viên dung không ngại…

Cư sĩ có làm mười hai bài theo điệu khúc để khuyến tấn người niệm Phật, gọi là Thập nhị thời tụng. Các bài ấy như sau:

 

Sáng sớm giờ Dần(3 AM-5 AM)


Thường thời khóa tụng phải chuyên cần
Một khắc công phu môn Thập niệm
Hay siêu sanh tử thoát trầm luân.
Pháp ít có
Diệu khôn phân!
Vãng sanh toàn bởi Tin làm nhân
Nếu như tin nhận không nghi hoặc
Là kẻ duyên sen đã có phần!

 

Nhựt hiện giờ Mão (5 AM-7 AM)


Sương sớm dễ tan, người dễ lão.
Thử đem tính lại bạn quen thân
Mồ xanh nhiều kẻ chôn phương thảo
Sớm tu hành
Mong đảm bảo!
Tất bóng trân châu giờ quí báu!
Khi nhàn chẳng chịu niệm Di Đà
Sao khỏi lâm chung nhiều áo não!

 

Nhựt lên giờ Thìn (7 AM-9 AM)


Ở đời lựa xóm tựa người lành.
Chớ hướng Trời, Người cầu phước báo
Phước tan sáu nẻo lạc loài thân!
Sanh Đao Lợi
Làm Chuyển Luân
Tạm thời khoái lạc phải đâu chân?
Khắp khuyên niệm Phật về Tây cảnh
Vĩnh viễn tiêu đao thoát tục trần!

 

Bóng cao giờ Tỵ (9 AM-11 AM)


Nấu cơm khói khắp nhà quyền quý.
Mình ăn khỏi đói chính mình no
Mình tự tu trì khỏi sanh tử.
Đạo cảm thông
Mâu vô tỷ!
Con mẹ nhớ nhau rồi toại chí
Đem hết thăn tâm thấy Nguyện vương.
Mười vạn tấc gang trong ý nghĩ

 

Đứng bóng giờ Ngọ (11 AM-1 PM)


Phật nhựt khắp nơi đều sáng tỏ,
Đường ngay bằng thẳng ít người đi
Cứ lối quanh co tìm chịu khổ!
Không nói Thiền
Chẳng sánh Tổ,
Niệm Phật mỗi câu hằng tự chủ
Thân hình tuy chửa thoát Ta Bà
Thức thần đã ở Liên hoa độ,

 

Chênh bóng giờ Mùi (1 PM-3 PM)


Thân nhơ, cảnh ác có chi vui?
Nổi chìm lên xuống đà bao kiếp
Trong đục khôn phân chịu lấp vùi!
Phải mạnh tiến
Chớ nhác lui!
Vỡ thường chợt đến cũng tay xuôi
Lông mày chữ “Chết” treo ngang mãi
Niệm Phật chừng ni mới biết mùi?

 

Xế bóng giờ Thân (3 PM-5 PM)


Thương nỗi kiếp sinh mãi chuyển vần!
Thân nầy chẳng tính đời nay độ
Còn đợi khi nào mới độ thân?
Tu kịp lúc
Chớ hẹn lần
Lâu dài ác đạo dễ trầm luân!
Ngàn Phật tuy thương khôn cứu vớt
Trần sa kiếp đọa khổ muôn phần,

 

Nhựt lặn giờ Dậu (5 PM-7 PM)


Tàn dương sắp tắt màn đêm rủ
Tử sanh việc lớn biết chăng ai?
Kẻ ngu tầm mắt nhìn gần gũi,
Luyến tiền tài
Thích trà rượu
Dong ruổi đông tây đâu biết đủ?
Bôn ba chẳng rảnh niệm Di Đà
Già chết kề bên đành thúc thủ!

 

Hoàng hôn giờ Tuất (7 PM-9 PM)


Dĩa đèn le lói soi u thất
Lên giường từ biệt dép cùng giày
Hồn mộng mê mờ tối như mực
Gẫm thân người
Thương dễ mất!
Muốn thoát luân hồi mau niệm Phật
Vô biên tội chướng một thời tiêu
Phật huệ sáng như ngàn mật nhựt

 

Cảnh yên giờ Hợi (9 PM-11 PM)


Danh lợi sang giàu đâu vẫn mãi?
Giấc đẹp hoàng lương chửa tỉnh mơ
Ngàn năm ước tính dường si dại?
Chút dần dà
Thành trễ nải!
Hơi thở chẳng vào nhiều kiếp hối!
Luống phụ Tây phương đấng Nguyện vương
Tay vàng chờ đón ân sơn hải!

 

Nửa đem giờ Tý (11 PM-1 AM)


Đôi cõi sạch dơ còn mộng mị
Lò khổ Ta Bà chẳng luyện nung
Đâu tắt lừa lòng chán sanh tử?
Biết chán lìa
Phải dừng nghỉ
Cảnh đẹp Liên bang vui khó ví!
Não phiền trước mắt bởi từ đâu?
Nẻo sáng trời Tãy mau liệu lý.

 

Gà gáy giờ Sửu (1 AM-3 AM)

 


Đã quyết về Tây nên khéo hiểu.
Cảnh khổ là duyên giúp tiến tu
Miệng niệm tâm nghe rành Phật hiệu
Gác dở hay
Quên đủ thiếu!
An lòng biết đủ tùy duyên liệu
Hoa sen đâu mọc ở gò cao
Trong bùn sắc ngọc hương thanh nhiễu!

 

Cư sĩ niệm Phật rất tinh tấn. Về sau ẨN-TU, không biết sự lâm chung như thế nào?

Comments

Popular posts from this blog