ĐI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI



34) MẠ MẠ

 

MẠ MẠ. Hán dịch là “ngã sở thọ trì” (Y GIÁO PHỤNG HÀNH). Đó chính là một loại mệnh lệnh hành động. Có nghĩa là “mọi việc tôi làm bảo đảm chắc chắn phải được thành tựu”.

MẠ MẠBạch phất thủ nhãn ấn pháp. ở Trung Hoa, các đạo sĩ và Tăng sĩ Phật giáo thường sử dụng phất trần, các vị cao tăng thường cầm phất trần khi đăng bảo tọa để thuyết pháp.

Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng và chữa lành mọi ma chướng sinh ra bệnh tật.

Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều công dụng, nhưng người biết cách dùng ấn pháp này lại rất ít. Tôi biết hiện nay có rất ít người sử dụng được ấn pháp này.

Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đã trở về. Họ đã trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về đến phi trường vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hãng hàng không Trung Hoa. Ngày nay Phật giáo Giảng Đường đã có được nhiều xe hơi nên toàn thể Phật tử hộ pháp trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở San Francisco – Cựu Kim Sơn – Hoa Kỳ - đều có thể ra phi trường để đón mừng các vị tân Tỷ Khưu.

Bình thường, tôi chẳng muốn đến phi trường nhưng trong chuyến bay ấy có chở về vài tượng Phật, nên tôi ra phi trường để nghênh đón tượng Phật chứ không phải để đón các đệ tử của tôi. Các đệ tử của tôi cũng không cần tôi đón, cũng chẳng cần đưa. Khi họ đi Đài Loan thọ giới, tôi đã nói với họ rằng:

 

“Khi mê thì thầy độ
Khi ngộ rồi tự độ”.


Nay họ phải tự độ chính họ, họ đã ra đi, nay lại trở về. Chắc chắn họ phải tự tìm ra con đường từ phi trường về chùa. Họ chẳng cần tôi phải chỉ dẫn:

“Quẹo ở đó, đi theo đường này, đó là đường về chùa”.

 

Điều buồn cười nhất là khi họ viết thư báo cho tôi biết họ đã bỏ quên một thùng Kinh. Tôi bảo:

“Bỏ quên kinh chẳng có gì quan trọng. Điều quan trọng chính là không có ai trong các con bị bỏ quên”.

 

Năm người đi thọ giới và nay năm người đều đã trở về. Sao vậy? Vì tôi đã mua bảo hiểm ở chư vị Bồ – tát, nên để cho bất kỳ ai bị bỏ sót lại là điều không thể chấp nhận được. Nếu một người không về, tức là chư vị Bồ – tát không thực hiện đúng hợp đồng. Thế nên tôi rất tin tưởng rằng tất cả các giới tử sẽ trở về và dịch vụ bảo hiểm của chư vị Bồ – tát không cần phải thanh toán hợp đồng.

Quí vị nên nhớ một điều. Những người thọ giới Cụ túc trở về hôm nay là những vị Tổ khai sơn của Phật giáo Mỹ quốc. Đừng xem việc này đơn giản. Điều này rất chân thực. Đừng như những kẻ tự cho mình là Phật tử, chỉ nằm ở nhà mà thích gọi mình là “Tổ tại gia”. Thực vậy, cách đây vài hôm, có một vị Tổ sư tự phong đến đây và muốn hát tặng cho tôi nghe. Tôi giễu cợt ông ta: “Thật chán khi nghe ông hát”. Ông ta chỉ bật lên: “ồ!”, một tiếng rồi bỏ đi.



ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI XUẤT TƯỢNG


34. MẠ MẠ

 MÀMÀ (MẠ MẠ)



BỔN-THÂN NGÀI ĐẠI-HÀNG-MA KIM-CANG



Kệ tụng :

 

 

Chiết phục ma ngoại hiện thần uy

Đại từ cứu thế pháp vương khôi

Bình đẳng phổ tế ba la mật

Hữu duyên chúng sanh hoạch yết đế





THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN PHÁP-BỬU

CHƠN-NGÔN-ĐỒ



Đức Phật lại bảo ngài A Nan: - Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát có ngàn mắt ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Đó cũng là do tâm Đại Bi của vị Đại Sĩ ấy hóa hiện. 


 PHỤ CHÚ .- Những chân-ngôn sau đây, chỗ có 2 vạch ngang (--) là chữ đọc kéo hơi dài ra, chữ có 1 vạch ngang (-) là hai chữ đọc hiệp lại làm một. Muốn cầu điều gì, đọc chân-ngôn theo điều ấy. 

 


42 Thủ Nhãn Ấn-Pháp




NAM MÔ BỔN-THÂN NGÀI ĐẠI-HÀNG-MA KIM-CANG MA-HA-TÁT


Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Ba


Mạ Mạ [34]


Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế,
                               mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.




Kinh nói rằng: “Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thân, nên cầu nơi Tay cầm cây        
                         Phất-Trần.”         
                     


Thần-chú rằng: Mạ Mạ [34]

Chơn-ngôn rằng: Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dã nhá,
                                 nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.




Kệ tụng:


Túc thế sát nghiệp trọng như sơn

Dục tu thánh đạo chướng vô biên

Hạnh hữu đại bi bạch phất thủ

Khinh tảo số số chúng nan quyên



MAHAKARUNA DHARANI



34. MÀMÀ 

 

MÀMÀ means “I, who accept and hold.” It is a kind of command, a call to action. It means, “Everything I do must certainly be successful!”

MÀMÀ is the White Whisk Hand and Eye. In China Taoist Masters Buddhist Monks usually carry a whisk Buddhist High Masters usually carry a whisk when they take the High Seat to speak the Dharma.

The White Whisk Hand and Eye is used to dispel all obstacles to the body, all karmic obstructions and painful illnesses. A few swats with the brush will cure you of your karmic obstacles or demon-obstacle sicknesses.

The White Whisk Hand and Eye has many uses, but the people who know how to use it are very few; I know that at present there are very few.

The first Westerners to have received the Complete Precepts are returning from Taiwan as genuine Bhikshus and Bhikshunis. They will arrive at the airport at 4:30 this afternoon on China Airlines, Flight 910. We have lots of cars today so all the Buddhist Lecture Hall Dharma protectors, as well as all the Buddhists in San Francisco who want to go to the airport to welcome them may go.

Originally I wasn’t going to go to the airport, but there are several Buddha images coming on the flight and I’m going to the airport to welcome them, not my disciples. My disciples don’t need me to welcome them and they don’t need me to see them off. When they left I told them,


“When deluded, one’s Master takes one across;

when enlightened, one takes oneself across.”

 

Now they have taken themselves across; they’ve run off and returned, and they can certainly find their way home from the airport. They don’t need me to tell them, “Turn there; take that road, that’s the road home…”


The funniest thing was when they wrote that they had lost a box of Buddhist Sutras. I said, Losing a box of Sutras is not important. What is important is that none of you got lost.” Five of them left and five returned. Why? I had already bought insurance from the Bodhisattvas and so it was not permissible for any of them to get lost. Not one of them could fail to return. If one hadn’t returned, the Bodhisattvas would have had to pay on the policy. So I was quite confident that all of them would return together, and the Bodhisattvas’ insurance agents don’t need to pay the policy.

You should remember this clearly: those who are returning today are Pioneer American Buddhist Patriarchs. Don’t look upon them lightly. This is true and real. It’s not like people who call themselves Buddhist and sit at home as “stay-at-home” Patriarchs. A few days ago, in fact, one of the self-made Patriarchs came here and said he wanted to sing me a song. “I hate it when you sing!” I teased, and he said, “Oh!” and ran away.




MAHAKARUNA DHARANI ILLUSTRATIONS



34. MÀMÀ 


Repressing cults and demons with displays of awesome spirit,

His great compassion saves the world; he is a King of Dharma.

With magnanimous equality he rescues us, expansively perfecting paramitas.

Beings with and without affinities attain gate.



THE FORTY-TWO HANDS



13. The White Whisk Hand and Eye


The Sutra says: “For getting rid of evil obstacles and difficulties, use the White Whisk
                            Hand.”



The Mantra: Mwo mwo.

The True Words: Nan. Bwo now mi ning. Pe ye wa di
                           Mwo he ye re. Ye mwo he ning. Sa wa he. 




The verse:


With karma of past killing heavy as a mountain,

You wish to practice the Sagely Way, but obstacles are unbounded.

How fortunate to have the Great compassion White Whisk Hand.

Again sweep lightly, and again so that piled-up hardships vanish.



with the commentary of

 

THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA

 

Translated into English by

BHIKSHUNI HENG YIN

 

THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY

SAN FRANCISCO

1976


ĐẠI BI CHÚ

Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa

Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU

CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)

 

MAHAKARUNA DHARANI

Hòa-Thuợng THÍCH-THIỀN-TÂM dịch từ PHẠM-VĂN ra VIỆT-VĂN









Ẩn-Tu Ngẫu Vịnh

Như-Ý Giảng giải 

 

 

TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,

GÍO LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.


Nương mình tựa án xem NGƯỜI CỔ,

ẨN BÓNG trong gương ngẫm chuyện đời.

 

 

HÒA THƯỢNG TÔN SƯ

Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư  Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.



BÀI SỐ 7


 

Ẩn tu riêng chạnh nỗi riêng mình

Túc trái gây nên, mối bất-bình

Tích phước tu-hành rồi tạo nghiệp

Cánh bèo trôi giạt biển phù sinh.

 

NHƯ Ý :  Chư THIỀN ĐỨC của Trung Hoa và Nhật Bản đều nói, các bậc chư hầu khanh Tướng,  Anh Tuấn Tài Năng hầu hết là từ cửa TAM BẢO mà thác Sanh, bởi tu hành Tất có PHƯỚC HUỆ hưởng quả quyền quý cao sang, trong hoàn cảnh đó dễ đam mê tạo nghiệp, gây mối oan trái bất bình, rồi bị Luân Hồi khổ lụy, nên nếu không được GIẢI THOÁT thì sự tu của ĐỜI NÀY là mối thù của KIẾP THỨ 3.

 

Tiên đức hằng răn nhắc:

"Nếu tu mà không chuyên cầu giải thoát, thì sự tu nơi kiếp này là MỐI THÙ TRONG KIẾP THỨ BA."

Sở dĩ có việc ấy, bởi kiếp thứ nhứt lo kham khổ tu hành, nên chuyển sanh qua kiếp thứ nhì được hưởng quả báo thông minh giàu sang quyền thế. Trong kiếp thứ hai này, do giàu sang nên dễ mê theo cảnh quyền quý, vợ đẹp con xinh, cùng các thú vui vật chất nơi cõi trần.

Đã nếm mùi dục lạc tất dễ sanh đắm nhiễm, càng đắm nhiễm càng đi đến chỗ sa đọa tối tăm, dám làm nhiều điều ác để củng cố lợi quyền và thỏa lòng tham vọng. Kiếp thứ nhì đã gieo nhân như thế, kiếp thứ ba làm sao khỏi bị đọa lạc tam đồ?

 

Có kẻ gạn:

"Kiếp trước đã có công tu gieo nhân tốt, không lẽ sang kiếp thứ nhì trí huệ căn lành đều mất, để đến nỗi phải bị đọa hay sao?"

- Xin đáp:

"Căn lành tuy có, nhưng nghiệp ác từ vô lượng kiếp chưa phải đã tiêu trừ. Mà trong cảnh trần, việc lành rất khó làm như leo lên cây cao, điều ác rất dễ phạm như tuột xuống dốc lở.

Người xưa đã chẳng bảo:

“Trọn đời làm lành, lành còn chẳng đủ; một ngày làm ác, ác tự có dư” đó ư?

Như những người giàu sang quyền thế mà chúng ta hiện thấy, kiếp trước họ đều có ít nhiều công đức bố thí tu phước làm lành, nhưng kẻ hướng về nẻo thiện không bao nhiêu, người say đắm danh lợi vinh hoa lại chiếm phần đa số.

Thử hỏi có mấy vị đỗ cao quyền quý chịu xuất gia, sống một cuộc đời khắc khổ đạm bạc, hướng về mục đích giải thoát thanh cao?

Ngay như người xuất gia, khi chưa có địa vị còn kham nhẫn tu hành, lúc đã được quyền danh, nhiều kẻ lễ bái tôn trọng cúng dường, lại dễ bị cảnh phù trần ràng buộc. Hiện tại ta thấy có biết bao hàng Tăng Ni thiện tín, trước còn tinh tấn hành trì, sau lần lần biếng trễ bỏ tu hoặc hoàn tục thối đạo, nói chi đến kiếp sau?"

 

Kinh nói:

"Bồ Tát còn mê khi cách ấm,

Thanh Văn còn muội lúc ra thai."

 

"Cách ấm" là trải cách từ ấm thân này sang ấm thân khác. Như thân hiện tại là tiền ấm, chuyển sanh thân kiếp sau gọi là hậu ấm; trải qua sự xen cách từ thân trước đến thân sau như thế, bậc Bồ Tát chưa đắc đạo phải bị hôn mê.

Trong kinh, có nơi khác lại nói:

"Hạng phàm thường khi nhập thai, trụ thai và xuất thai đều hôn mê.

Bậc Chuyển Luân Thánh Vương do phước báo, lúc nhập thai thì biết, khi trụ thai, xuất thai phải bị hôn mê.

Hàng Thanh Văn lúc nhập thai, trụ thai đều có thể tỉnh biết, song khi xuất thai lại hôn mê.

Duy có bậc Bồ Tát chứng Vô Sanh Nhẫn, lúc nhập thai, trụ thai và xuất thai đều tỉnh giác."

Đôi khi hạng phàm phu do nghiệp duyên đặc biệt cũng nhớ được kiếp trước, nhưng đây chỉ là trường hợp ít có trong muôn một. Hoặc đó là Bồ Tát thị hiện để cho chúng sanh biết có luân hồi, ngoài ra tất cả khi chuyển sanh đều bị mê muội.

Khi đã hôn mê, thì bao nhiêu sự hiểu biết về đạo lý và những tâm nguyện nơi kiếp trước, đều vì vô minh che lấp khiến cho lãng quên.


 

XÓA SẠCH DUYÊN TRẦN

(Phỏng dịch “Thất Bút Câu” của ngài LIÊN-TRÌ )

 

I

XÓA SỰ HIẾU DƯỠNG THEO ĐỜI

 

Công ơn sanh dưỡng

Biển thẳm non cao

Gấm vóc trân tu đáp được nào ?

Cha mẹ lìa trần cấu

Đạo con mới thành tựu !

Ôi chà chà !

Giải thoát xuất trần nhân lớn lao

Phàm tình đâu đã hiểu !

Cháu hiền cùng con thảo

Chân không, lẽ diệu mau tham cứu !

 

Bởi thế nên đem

Năm sắc kim chương xóa sạch làu !

 

II

XÓA TÌNH VỢ CHỒNG ÂN ÁI

 

Vợ chồng duyên đẹp

Loan phượng mến yêu

Mối giây ân ái thuở nào tiêu ?

Mộng tình theo lẽo đẽo

Duyên hết lìa đôi nẻo !

Ôi chà chà !

Vấn vương vui hết lại buồn đau

Tam đồ thêm khổ não !

Xét rõ phá oan gia

Tìm của đạo mầu mau thoát tháo.

 

Bởi thế nên đem

Cá nước duyên kia xóa sạch làu !

 

III

XÓA LÒNG QUYẾN LUYẾN CON CHÁU

 

Cháu con đeo đẳng

Như thịt bứu thừa.

Vì con cháu chịu kiếp trâu lừa !

Họ Đậu non Yên xưa

Ngày nay còn đâu nữa ?

Ôi chà chà !

Nghĩ lo trăm kế lại ngàn mưu

Cũng về nơi Ô hữu !

Trở lại tánh Bản lai

Dẫu rằng vạn kiếp trường xuân hảo !

 

Bởi thế nên đem

Con cháu kim lan xóa sạch làu !

 

IV

XÓA BỎ NIỆM CÔNG DANH

 

Công danh khoa bảng

Riêng chiếm ngao đầu

Vui mừng đắc ý buổi thanh thu !

Ấn vàng ngời tinh đẩu

Danh đẹp thơm trường cửu

Ôi chà chà !

Bao nhiêu thanh thiếu những mong cầu

Tóc xanh thành bạch thủ !

Khi tỉnh giấc hoàng lương

Một tiếng cười khan đời mộng ảo !

 

Bởi thế nên đem

Quý hiển công danh xóa sạch làu !

 

V

XÓA BỎ SỰ THAM SANG GIÀU

 

Của tiền giàu có

Xe ngựa nhà lầu.

Lẫy lừng thanh thế sánh vương hầu.

Khi cầu nhiều kiếp khổ

Lúc được lo nghiêng đổ !

Ôi chà chà !

Đạm thanh biết đủ thắng trân tu !

Áo gai dường cẩm tú !

Khoảng trời đất tiêu dao

Nhà rộng của nhiều đâu đủ báu?

 

Bởi thế nên đêm

Tài sản điền viên xóa sạch làu !

 

VI

XÓA TÂM MÊ ĐẮM SẮC TÀI

 

Cầm kỳ văn họa

Tài sắc phong lưu

Gieo vàng tỏ ngọc vẻ tươi mầu !

Cờ thi hòa rượu đấu

Cầm ca dìu dặt tấu !

Ôi chà chà !

Gấm hoa xán lạn suốt canh thâu

Nhã nhạc lừng ngưu đẩu !

Gìa chết chợt đến nơi

Cấp cứu trầm luân ai đảm bảo ?

 

Bởi thế nên đem

Tài sắc văn chương xóa sạch làu!

 

VII

XÓA TÁNH ƯA THÍCH DU NGOẠN

 

Dạo chơi thắng cảnh

Thu đẹp xuân kiều !

Túi thi đàn rượu khắp ngao du!

Non nước vài thân hữu

Mưa khói mờ hoa liễu !

Ôi chà chà !

Ráng hồng suối bạc sánh phong lưu

Đâu nghĩ ngày mai hậu ?

Sáng tối thoáng qua mau

Thảng thốt quay đầu suy, bịnh, lão !

 

Bởi thế nên đem

Phong nguyệt tình vui xóa sạch làu!

 

 

LƯƠNG DUY CHÂU

 

Lương Duy Châu, quê ở Thiệu Hưng, làm người chấp sự tại am Long Đàm. Đến bốn mươi tuổi, ông MÙ CẢ ĐÔI MẮT, không còn làm việc để sanh sống được, muốn TỰ TỬ.

Có vị tăng trong am khuyên ngăn rằng:

“Buồn phiền mà chết như thế, chỉ thêm nghiệp chứ không được giải thoát. Ở thế giới Cực Lạc phương Tây có đức Phật hiệu A Di Đà. Nếu ông chí tâm thường trì niệm hồng danh, thì sẽ vĩnh viễn thoát khổ, sanh về cõi an vui.

Vậy sự đui mù có chi mà đáng ngại? Như ông chịu làm y theo lời, tôi NGUYỆN xin khất thực để giúp đỡ! Duy Châu cảm tạ, nguyện xin tuân hành.

Ông chí thiết niệm Phật được ba năm, đôi mắt bỗng nhiên sáng lại. Hơn nửa tháng sau, ông bảo chúng rằng:

“Tôi sắp đi xa!’’

Qua ba hôm, vào giờ Ngọ, Duy Châu ngồi chắp tay day mặt về Tây niệm Phật mà thoát hóa. Lúc ấy nhằm năm Càn Long thứ ba mươi tám.

 

LỜI BÌNH: -Từ truyện Trương Chung Quỳ đến đây, hoặc bởi những người KHÔNG quy y Tam bảo, hoặc do sự hiện tích có vẻ ly kỳ, nên soạn giả không sắp vào hàng tứ chúng, mà liệt vào hạng TẠP LƯU vãng sanh.

Cảnh Luân nghiệp quả đáng bi thương, kiếp phù sinh vẫn như mộng huyễn. Bao nhiêu nỗi khổ vui, vinh nhục, đắc thất đã trải qua: việc lo toan về bản thân, gia đình, xã hội chưa thấy ổn, mà cái chết đã kề cận một bên rồi!

Môn Niệm Phật đối với người tại gia rất cần thiết. Bởi THÂN đắm vào lò lửa trược trần, TÂM chìm trong ngục tù phiền não, khi một hơi thở chẳng vào thì nghiệp tam đồ kế tiếp. Nếu không nhờ sức Phật, làm sao đối địch nổi với cảnh nầy?

Với những kẻ tạo nghiệp chẳng lành đang bị ác báo, thì công đức của Phật hiệu, sự hộ trì của tha lực lại càng khẩn yếu. Đại khái như CHUNG QUỲ và DUY CHÂU, nếu chẳng nhờ một câu hồng danh thì làm sao được giải thoát?

Thế mới biết BI NGUYỆN của Phật thật vô cùng rộng sâu, chẳng bỏ sót một chúng sanh nào cả ?



Niệm Phật Phải Vì Thoát Sanh Tử


 

Vừa khỏi bào thai lại nhập thai.

Thánh nhơn trông thấy động bi ai!

Huyễn thân xét rõ toàn nhơ nhớp.

Thoát phá mau về tánh bản lai.

 

Nhìn gẫm đường trần đầy khổ nhọc

Lòng tưởng Tây Phương cõi Thiên Trúc

Đầu non trăng sáng tiếng chuông ngân

Canh khuya cầm quyển Lăng Nghiêm đọc.

 


HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC

 

"ĐÃ TỪNG trôi nổi riêng thương khách

Muốn nhủ đồng nhơn lại CỐ HƯƠNG!"

  

Xin mượn hai câu thơ trên để bày tỏ tâm sự tôi vậỵ

 

Mùa an cư năm Canh Tý (1960) 

Dịch giả: Liên-Du kính ghi

Comments

Popular posts from this blog