ĐI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI



26) Rị Ðà Dựng


Rị đà dựng“Thanh Liên Hoa thủ nhãn”. Có nghĩa là “Liên hoa tâm”. Khi quí vị hành trì ấn pháp này thành tựu, sẽ được mùi hương hoa sen xanh toả ra, và được mười phương chư Phật tán thán. Sự vi diệu thật khó có thể nghĩ bàn.


Đúng là:


"Pháp Phật cao siêu thật nhiệm mầu
Trăm ngàn ức kiếp khó tìm cầu!"

 


ĐẠI-BI-TÂM ĐÀ-RA-NI XUẤT TƯỢNG


26. Rị Ðà Dựng


RIDHAYU (RÍT ĐÀ DU)



BỒN-THÂN ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ



Kệ tụng :

 

Ứng cơ thị hiện vô lượng thân

Đại tiểu quyền thật hiển uy thần

Kim cang bất hoại thường tự tại

Thiên nhãn diêu quán thiên nhĩ văn




THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN PHÁP-BỬU

CHƠN-NGÔN-ĐỒ



Đức Phật lại bảo ngài A Nan: - Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát có ngàn mắt ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Đó cũng là do tâm Đại Bi của vị Đại Sĩ ấy hóa hiện. 


 PHỤ CHÚ .- Những chân-ngôn sau đây, chỗ có 2 vạch ngang (--) là chữ đọc kéo hơi dài ra, chữ có 1 vạch ngang (-) là hai chữ đọc hiệp lại làm một. Muốn cầu điều gì, đọc chân-ngôn theo điều ấy. 

 


42 Thủ Nhãn Ấn-Pháp




NGUYỆN

 

A-Di-Ðà Phật, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh, diện phụng Di-Ðà, dữ chư thánh-chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.

 

Nhứt sát na khoảng, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ-Tát đạo, quảng độ chúng sanh đồng thành chủng-trí.

 

Chí tâm đảnh lễ : Nam-Mô A-Di-Ðà Phật Thế-Tôn.

 

Nguyện ngã Tội chưóng tất tiêu diệt (1 lạy)

Nguyện ngã Thiện căn nhựt tăng trưởng (1 lạy)

Nguyện ngã Thân tâm hàm thanh-tịnh (1 lạy)

Nguyện ngã Nhứt tâm tảo thành tựu (1 lạy)

Nguyện ngã Tam muội đắc hiện tiền (1 lạy)

Nguyện ngã Tịnh nhơn tốc viên mãn (1 lạy)

Nguyện ngã Liên đài dự tiêu danh (1 lạy)

Nguyện ngã Kiến Phật ma đảnh ký (1 lạy)

Nguyện ngã Dự tri mạng chung thời (1 lạy)

Nguyện ngã Vãng sanh Cực Lạc Quốc (1 lạy)

Nguyện ngã Viên mãn Bồ tát đạo (1 lạy)

Nguyện ngã Quảng độ chư chúng-sanh (1 lạy)

 

CHÍ TÂM QUI MẠNG ĐẢNH LỄ  NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI GIÁO CHỦ, THỌ QUANG THỂ TƯỚNG VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN, TỪ THỆ HOẰNG THÂM, TỨ THẬP BÁT NGUYỆN ĐỘ HÀM LINH, ĐẠI TỪ ĐẠI BI TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ NHƯ LAI BIẾN PHÁP GIỚI TAM BẢO (1 lạy)

 

Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)

 

Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)

 

Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)





Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Chín


Rị Ðà Dựng [26]

Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra,
                bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được sanh về mười phương tịnh-độ, nên cầu nơi Tay cầm  
                        Hoa-Sen-Xanh.”



Thần-chú rằng: Rị Ðà Dựng [26]

Chơn-ngôn rằng: Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.




Kệ tụng:



Niệm Phật niệm pháp niệm thánh tăng

Thập phương tịnh độ bảo liên đăng

Hoa khai Phật hiện viên giác quả

Nhậm vận lai vãng sát na trung.





MAHAKARUNA DHARANI



26. RIDHAYU 


RIDHAYU is the Blue Lotus Hand and Eye. It means “heart of the lotus flower.” When you have cultivated this hand and eye to perfection, the fragrance of the blue lotus will be manifest, and you will be praised by the Buddhas of the ten directions. It is extremely subtle and wonderful, and inconceivable,


"A supreme and extremely profound Dharma,

Which in a billion aeons is difficult to encounter."

 


MAHAKARUNA DHARANI ILLUSTRATIONS



26. RIDHAYU 


Responding to those who are ready, he appears in boundless bodies.

With awesome spirit, he reveals things great and small, provisional and real.

This vajra indestructible body is forever free at ease.

As his heavenly eye contemplates, his heavenly ear listens.




THE FORTY-TWO HANDS 





19. The Blue Lotus Hand and Eye


The Sutra says: ”For rebirth in the pure lands of the ten directions, use the
                           Blue Lotus Hand.”



The Mantra: Li two yun.

The True Words: Nan. Jr li jr li. Wa dz la.
                           Bu la pan two. Hung pan ja.




The verse:


Mindful of the Buddha, the Dharma, and the holy Sangha,
One may ascend to the jeweled lotuses in the pure lands of the ten directions.
When the flower blooms, the Buddha appears, perfecting the fruit of enlightenment,
Coming and going freely in the space of an instant.



with the commentary of

 

THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA

 

Translated into English by

BHIKSHUNI HENG YIN

 

THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY

SAN FRANCISCO

1976


ĐẠI BI CHÚ

Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa

Bản dịch của THÍCH NHUẬN CHÂU

CÚ GIẢI
(Giảng giải từng câu)

 

MAHAKARUNA DHARANI

Hòa-Thuợng THÍCH-THIỀN-TÂM dịch từ PHẠM-VĂN ra VIỆT-VĂN









Ẩn-Tu Ngẫu Vịnh

Như-Ý Giảng giải 

 

 

TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,

GÍO LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.


Nương mình tựa án xem NGƯỜI CỔ,

ẨN BÓNG trong gương ngẫm chuyện đời.

 

 

HÒA THƯỢNG TÔN SƯ

Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư  Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.


BÀI SỐ 82

 

Ẩn tu ai bảo chẳng Di Đà

Thiện Đạo quang-minh niệm niệm ra

Khang Tổ mỗi câu sanh hoá PHẬT

Cười hàng ngu chấp cố dèm pha.

 

NHƯ Ý : Xưa nay ở Trung-Hoa lẫn Việt-Nam, có những kẻ tu Phật Trệ-chấp theo KHÔNG thuyết, cho rằng Phật A-Di-Đà chẳng CÓ thật, các vị ấy sao chẳng để ý việc Thiện-đạo Đại-sư mỗi câu Niệm-Phật Phóng ra Ánh-sáng rộng dài, và Thiếu-khang Đại-sư Niệm-Phật mỗi câu nơi Miệng đều hiện ra  một vị hóa Phật.


Nghe nói ở Nhật-Bản cũng có hành tu Thiền Sơ-cơ cũng đồng lối MÊ chấp ấy, các Vị đó sao không xét lại chuyện DŌGEN THIỀN-SƯ” ở nước mình, khi Ngồi THUYỀN  từ TRUNG-QUỐC trở về NHẬT-BẢN, gặp cơn GIÓ BÃO thổi Ghe-Thuyền của Ngài sắp CHÌM, trong giây phút SINH-TỬ đó, Ngài không NGỒI THIỀN, mà lại  Niệm “ NAM-MÔ ĐẠI-BI QUÁN-THẾ ÂM BỒ-TÁT”, còn KHUYÊN những người trên Thuyền cùng Niệm theo Ngài, tức thời HÓA THÂN của Bồ-tát Xuất-hiện, làm cho cơn bão lần lần dừng lại.


Cho nên, mọi người  đó đều đặng thoát khỏi NẠN GIÓ BÃO, NHỜ Niệm Hồng Danh Bồ-tát Quán-Thế-Âm.

 

(The statue memorializing Dōgen's vision of Avalokiteshvara at a pond in Eihei-ji, Japan.)

 

Lời Than rằng:

 

“Nhất đại tạng kinh đô thuyết tận,

Bất tri thùy thị cá trung nhơn.”


(SƠN CƯ BÁCH VNH)


Tạm dịch,  

 

“Một đại tạng Kinh xem đã hết,

Biết ai là kẻ ở TRONG đây.”

 

Có lẽ cũng một phần Phát-xuất từ mối MÊ chấp này.





The statue memorializing Dōgen's vision of Avalokiteshvara 

at a pond in Eihei-ji, Japan.


Another famous incident happened when he was returning to Japan from China. The ship he was on was caught in a storm. In this instance, the storm became so severe, that the crew feared the ship would sink and kill them all. Dōgen then began leading the crew in recitation of chants to Kannon (Avalokiteshwara), during which, the Bodhisattva appeared before him, and several of the crew saw her as well. After the vision appeared, the storm began to calm down, and consensus of those aboard was that they had been saved due to the intervention of Bodhisattva Avalokiteshwara.



SƠN CƯ BÁCH VNH


BÀI SỐ 100

 

Sơn cư độc xử lc thiên chơn,

Minh nguyt thanh phong chuyn pháp luân,

Nhất đại tạng kinh đô thuyết tận,

Bất tri thùy thị cá trung nhơn.

 


Các tông đại khái chia ra làm hai, là Không môn và Hữu môn.


Không môn từ phương tiện lý tánh đi vào.

Hữu môn từ phương tiện sự tướng đi vào.


Nhưng đi đến chỗ tận cùng thì dung hội tất cả, sự tức lý, lý tức sự, tánh tức tướng, tướng tức tánh, nói cách khác: “Sắc tức là không, không tức là sắc, không và sắc chẳng khác nhau”.

Cho nên khi xưa có một vị đại sư tham Thiền ngộ đạo, nhưng lại mật tu về Tịnh Độ. Lúc lâm chung, ngài lưu kệ phó chúc cho đại chúng, rồi niệm Phật sắp vãng sanh. Một vị thiền giả bỗng lên tiếng hỏi:

 

“Cực Lạc là cõi hữu vi, sao tôn đức lại cầu về làm chi?”

 

Đại Sư quát bảo:

“Ngươi nói VÔ VI ngoài HỮU VI mà có hay sao?”

 

Thiền giả nghe xong chợt tỉnh ngộ. Thế nên Thiền và Tịnh đồng về một mục tiêu. Hữu môn cùng Không môn tuy dường tương hoại mà thật ra TƯƠNG THÀNH CHO NHAU vậy.

 

Niệm Phật Thập Yếu

Hòa Thượng Thích Thiền Tâm

 

BÀI KỆ THỨ 97

 


Một câu A Di Ðà
Cảm ứng chớ xem khinh
Thiếu Khang hiện hóa Phật
Thiện Ðạo phóng quang minh.

 

(Nhứt cú Di Ðà
Cảm ứng phi khinh
Thiếu Khang hóa Phật
Thiện Ðạo quang minh.)

 

LƯỢC GIẢI

 


Thiếu Khang đại sư niệm một câu hồng danh, trong miệng bay ra một vị hóa Phật.

 

Thiện Ðạo Hòa thượng niệm mỗi câu Phật hiệu, nơi miệng phóng ra một đạo quang minh.

 

Hai điều trên chứng minh cho công đức niệm câu hồng danh A Di Ðà thật lớn lao, và sự cảm ứng của Phật hiệu như thế đã đến mức cùng diệu. Và điều trên đây cũng nhắc cho người học đạo nên thức ngộ, đừng xem môn Niệm Phật là dung thường.


Trong mấy bài kệ liên tiếp, Triệt Ngộ đại sư đã dẫn chứng trên từ chư Phật Thế Tôn, nói rộng ra là các đức Như Lai ở sáu phương như kinh A Di Ðà đã thuyết minh, đều khen ngợi khuyên tu Tịnh Ðộ, và chỉ riêng các ngài mới biết cùng tận pháp này.

 

Kế đến chư đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, các bậc đại Tổ Sư như Mã Minh, Long Thọ; những vị đại long tượng về bên Tông như ngài Vĩnh Minh, về bên Giáo như ngài Trí Giả và sau cùng chính chư Tổ bên Tịnh Ðộ như Thiện Ðạo, Thiếu Khang. Những vị trên tuy cũng suốt thông các pháp môn khác, song vẫn quy hướng về Tịnh Ðộ.

 

Tại sao Tổ Triệt Ngộ lại nhiều phen dẫn chứng như thế?

 

Trong đây có hai nguyên nhân rất quan trọng.


Ðiều thứ nhứt: Các vị học thức xưa nay (bút giả dùng danh từ “học thức” chớ không nói trí thức, vì học thức là một việc, trí thức lại là việc khác) khi mới tìm đạo, đều ưa thích những lý luận cao siêu huyền diệu. Sự ưa thích đó không phải là điều lỗi. Nhưng phần nhiều họ lầm lạc chấp theo Thiên Không, chưa dung hội được giữa Không và Có, bài bác nhân quả sự tướng, nên hầu như thành một căn bịnh trong khi học đạo.

 

Ðối với môn Tịnh Ðộ, họ chưa thấu đáo được sự cao diệu của pháp này nên khi thấy những kẻ tối dốt, hạng bình dân cũng tu hành được, lại xem thường cho là pháp thấp kém. Chư đại thiện tri thức thấy sự lầm lạc tà kiến đó mới thẳng thắn bác phá, chỉ bày. Vì thế Tổ Triệt Ngộ đã dẫn những chứng minh trên để cảnh giác, ngụ ý bảo: "Nếu Tịnh Ðộ là thấp kém, tại sao từ chư Phật, Bồ Tát, cho đến chư Tổ, các bậc đại long tượng bên Tông lẫn bên Giáo đều ngợi khen khuyến khích, hoặc thân thiết phụng hành?"


Ðiều thứ hai: Các vị thông minh kiến thức trên, khi luận đạo thường nói những lý luận siêu huyền, để tỏ ra mình là những người hiểu rộng tu cao. Nhưng họ lại không tự xét rằng: Về phần thật hành, mình có làm được một phần nào đối với những lời nói đó chăng?

 

Nhứt là buổi đi sâu vào thời mạt pháp này, người tu căn cơ non kém, nghiệp chướng nặng nề, dùng những hình thức dễ làm như niệm Phật tụng kinh, mà kẻ hành đạo tại gia lẫn xuất gia còn vọng niệm rối ren, nay chầy mai trễ, huống chi là sự nhiếp tâm nơi định trong tất cả thời, tất cả hành động nói năng?

 

Bút giả từng nghe một vài vị tu học về Thiền khi luận đến sự hành trì, thường dẫn lời của những chư Tổ hoặc các bậc tôn túc thời xưa mà trạng huống cho lối tu của mình và còn ra vẻ đắc ý. Chẳng hạn như câu:

 

"Viên bão tử quy thanh chướng lý.

Ðiểu hàm hoa lạc bích nham thiền!"

 

(Vượn ôm con chuyền về rặng núi xanh.

Chim ngậm hoa sa trước gộp đá biếc).

 

Hoặc như:

 

"Nhập lâm bất động thảo.

Nhập thủy bất đạp ba".

 

(Vào rừng mà không làm động đến ngọn cỏ.

Xuống nước nhưng chẳng đạp sóng nước).

 

Các vị đó không xét lại hai câu trước là tâm cảnh của ngài Giáp Sơn, chớ chẳng phải cảnh giới của mình. Thỉnh thoảng có việc chi xúc động thì các vị liền tỏ vẻ phiền hà, tức giận. Thế là cỏ cây đã động, chân đã đạp sóng nước rồi đấy! Trước tệ trạng lạc lầm lạc rộng đó, chư thiện tri thức vì xót thương, vì muốn cứu vãn đạo pháp nên mới thẳng lời phê trích, cho hành động ấy là Cuồng Thiền. Và các ngài còn nói đến hạng Cuồng Mật nữa mà nếu có dịp, sau này bút giả sẽ dẫn giải.


Ðể kết luận, cần nhấn rõ thêm là những điều nói trên tuyệt không có ý bài bác Thiền, Mật. Thiền và Mật là hai pháp môn cao siêu, và thật ra Thiền, Mật, Tịnh cả ba đều có đặc điểm riêng, cần tu học để hỗ trợ cho nhau. Chẳng hạn như khi trì chú theo của chân ngôn, Phật hiệu huân sâu vào tạng thức, kích động cho phiền não nổi dậy, phương pháp làm lắng động hữu hiệu nhứt không chi hơn Thiền.

Trong lúc tham thiền hoặc niệm Phật, ma chướng trong ngoài khuấy rối, cách hàng phục kiến hiệu mau lẹ nhứtkhông chi hơn Mật.

Và muốn giải quyết việc lớn là sống chết luân hồi một cách thẳng tắt chắc chắn nhứt, lại không chi hơn Tịnh.

Luận cho cùng mỗi môn tự hàm đủ công năng của ba, song đó là ứng dụng của bậc trình độ cao siêu. Còn với bậc sơ cơ non kém, thật ra vẫn có sự sai biệt. Ví như bậc Tổ Sư về võ, dù sử dụng côn, chùy, kiếm, sự lợi hại vẫn đồng như nhau. Nhưng với hạng võ nghệ thông thường thì tác dụng của ba môn binh khí kia lại có sai biệt. Nếu chẳng thế, trong võ lâm cần chi bày ra ba môn ấy cho thêm phiền!


Cho nên trong thời mạt pháp, theo thiển ý nên lấy Tịnh Ðộ làm chánh yếu, Thiền, Mật làm phụ trợ. Hoặc nếu có tu Thiền hay Mật cũng nên niệm Phật nhiều ít hồi hướng về cõi Cực Lạc ở Tây phương.


THIỆN ĐẠO ĐẠI SƯ
(Liên Tông Nhị Tổ)

 

Thiện Đạo Đại Sư, người đời nhà Đường, chưa am tường được xuất xứ. Trong niên hiệu Trinh Quán, nhân thấy bài văn Tịnh độ Cửu Phẩm Đạo Tràng của Đạo Xước Thiền Sư ở Tây Hà, ngài rất mừng bảo: “Đây mới thật là cửa mầu đi vào cảnh Phật. Tu các hạnh nghiệp khác xa vời quanh quất khó thành, duy pháp môn này mau thoátt sanh tử!.

Từ đó ngài siêng cần tinh khổ sớm hôm lễ tụng. Ít lâu sau lại đến kinh sư, khuyên tứ chúng niệm Phật. Mỗi khi ngài vào thất quỳ niệm Phật, nếu chưa đến lúc kiệt sức, quyết không chịu thôi nghỉ. Lúc ra thất, mà vì đại chúng diễn nói pháp môn Tịnh Độ. Hơn ba mươi năm, Đại sư vừa hóa đạo, vừa chuyên tu, chưa từng ngủ nghỉ. Hằng ngày thường nghiêm trì giới hạnh không để sai phạm một mảy may. Khi được cúng dường thức ăn ngon quí, ngài đem dâng cho đại chúng, còn phần mình chỉ dùng thứ thô dở mà thôi. Tài vật của dân tín cúng cho, ngài dùng tả hơn mười muôn quyển kinh A Di Đà, họa cảnh Tịnh độ được ba trăm bức. Ngoài ra, thì dùng vào việc sửa sang chùa tháp, thắp đèn nối sáng, không chứa để dư.

Kẻ đạo người tục quy hướng theo đức hóa của ngài, niệm Phật rất nhiều kể đến số hàng vạn. Nhóm này thì tụng kinh A Di Đà từ mười vạn đến năm mươi vạn biến. Nhóm khác mỗi ngày đêm niệm Phật từ một muôn đến mười muôn câu. Trong đó những người hiện tiền chứng Tam Muội, lúc lâm chung được thoại ứng vãng sanh, đông không thể kể xiết.

Có người hỏi: “Niệm Phật quyết chắc được vãng sanh chăng?” Ngài đáp: ” Như ông tin tưởng và thực hành, chắc chắn sẽ được toại nguyện!”. Nói xong, ngài tự niệm: Nam Mô A Di Đà Phật, liền một tia sáng từ trong miệng phóng ra. Kế lại liên tiếp từ mười đến một trăm câu, mỗi câu đều có ánh sáng quang minh dài nối nhau khiến sáng rực cả chùa. Sự thần dị này truyền đến Đế kinh, vua Cao Tôn nghe được phụng tứ một tấm biển sắc tặng hiệu chùa là Quang Minh Tự.

Đại sư có bài kệ khuyên tu như sau:

Da mồi tốc bạc lần lần,
Lụm cụm bước run mấy chốc.
Dù sang vàng ngọc đầy nhà,
Vẫn khổ suy già bịnh tật.
Ví hưởng khoái lạc ngàn muôn,
Đâu khỏi vô thường chết mất?
Duy có đường tắt thoát ly
Chỉ niệm A Di Đà Phật!

Có người gạn:

– Sao Hòa thượng không dạy người quán tưởng Phật, mà chỉ bảo chuyên trì danh?

Ngài đáp:

– Chúng sanh đời nay phần nhiều chướng nặng tâm thô, thức thần tán động, mà cảnh tịnh độ rất tế diệu, nên quán tưởng khó thành. Vì thế đức Phật xót thương, khuyên thẳng nên xưng danh hiệu. Chính vì xưng danh hiệu là hạnh dễ làm, nếu cứ giữ mỗi niệm nối nhau tu như thế suốt đời, thì mười kẻ niệm mười kẻ được vãng sanh, trăm người tu trăm người về Tịnh độ. Tại sao thế? – Vì không duyên tạp bên ngoài, nên dễ được chánh niệm. Vì cùng với bản nguyện của Phật hợp nhau. Vì không trái với kinh giáo. Vì thuận theo lời Phật và chư Thánh chỉ dạy.

Nếu bỏ chuyên niệm mà tu xen tạp những hạnh khác, thì trong trăm ngàn người chỉ hy vọng được ba bốn kẻ vãng sanh. Bởi tại sao? – Vì duyên tạp loạn động khiến cho mất chánh niệm. Vì không hợp với bản nguyện của Phật A Di Đà. Vì trái với kinh giáo và lời Phật, Thánh. Vì sự hệ niệm không nối tiếp nhau. Vì tâm không thường nhớ Phật. Vì tuy hành đạo mà thường tương ưng với danh lợi. Vì thích theo duyên tạp, làm chướng chánh hạnh vãng sanh của mình và người.

Gần đây, hàng đạo tục kiến giải không đồng, kẻ thích chuyên tu, người ưa tạp hạnh. Xin khuyên nhắc: Nếu chuyên niệm Phật, mười kẻ niệm mười kẻ được vãng sanh. Như tạp tu mà không chí tâm, thì trong ngàn người khó mong được một. Nguyện tất cả đều nên chín chắn tự suy xét kỹ!

Lại người niệm Phật đi đứng nằm ngồi, phải cố gắng nhiếp tâm ngày đêm chớ rời thánh hiệu, thề quyết giữ đến hơi thở cuối cùng. Như thế tới lúc mãn phần, niệm trước vừa thọ chung, niệm sau liền sanh Cực lạc. Từ đây vĩnh viễn hưởng sự vui pháp lạc vô vi cho đến khi thành Phật, há chẳng đáng mừng ư?

Đại sư cũng từng dạy phương pháp giữ vững chánh niệm trong lúc lâm chung như sau:

– Người niệm Phật khi sắp mãn phần, muốn được sanh về Tịnh độ, thì điểm cần yếu là đừng sợ chết. Phải thường nghĩ thân này nhơ nhớp, biết bao điều khổ lụy trói vây! Nếu bỏ được thân huyễn hôi nhơ, sanh về Cực Lạc thọ thân kim cương thanh tịnh, sẽ thoát khỏi luân hồi khổ thú, hưởng vô lượng sự an vui. Ví như bỏ chiếc áo cũ rách đổi lấy đồ trân phục, còn điều chi đáng thích ý bằng! Nghĩ như thế, buông hẳn thân tâm không còn lo buồn tham luyến. Lúc vừa có bịnh, liền tưởng đến sự vô thường, một lòng niệm Phật chờ chết. Nên dặn thân thuộc chớ lộ vẻ bi thương, cùng bàn việc hay dở trong nhà. Nếu có ai đến thăm, chỉ khuyên nên vì mình niệm Phật, đừng hỏi thăm chi khác. Cũng không nên dùng lời dịu dàng an ủi, chúc cho sớm được lành vui, vì đó chỉ là chuyện bông lông vô ích. Phải bảo trước cho quyến thuộc biết, lúc mình bịnh ngặt sắp chết, đừng rơi lệ thương khóc, hoặc phát ra tiếng than thở âu sầu, làm kẻ lâm chung rối loạn tâm thần, lạc mất chánh niệm. Nói tóm lại, tất cả chỉ giữ một việc xưng danh trợ niệm cho đến sau khi tắt hơi. Nếu lại được bậc tri thức hiểu rành về Tịnh độ, thường đến khuyên thật là diệu hạnh! Như lúc lâm chung biết áp dụng phương pháp này tất sẽ được vãng sanh không còn nghi ngờ chi nữa.

Việc vượt qua cửa tử là điều rất quan hệ lớn lao, phải tự mình gắng sức mới được. Nếu một niệm sai lầm, tất nhiều kiếp sẽ chịu khổ lụy đâu có ai thay thế cho mình? Phải chú ý nghĩ suy và nghi nhớ kỹ!

Một hôm, Đại sư bỗng bảo người rằng: “Thân này đáng chán, ta sắp về Tây!” Nói xong leo lên cây liễu trước chùa, chấp tay hướng về Tây chúc nguyện rằng: Xin Phật và Bồ Tát tiếp dẫn con, khiến cho không mất chánh niệm, được sanh về cực Lạc. Nguyện xong, gieo mình xuống nhẹ nhàng như chiếc lá rơi, ngồi kiết già ngay thẳng trên mặt đất.

Đại chúng vội chạy đến xem thì ngài đã tắt hơi viên tịch.

Lời bình:

Các bậc tu thiền đắc đạo, muốn biểu hiện sự sống chết tự tại, có vị đứng mà hóa, có vị trở ngược đầu xuống đất đưa hai chân lên trời mà viên tịch. Nếu chưa phá tan ngũ uẩn, khi từ trên cao rơi xuống, dù bậc phục được hoặc phát ngộ cũng khó giữ vững được chánh niệm. Hành động của Thiện Đạo đại sư, từ trên cây gieo mình xuống đất ngồi kiết già mà hóa, là biểu hiện sự sống chết tự tại, tuỳ niệm vãng sanh một cách tuyệt mức. Đại sư muốn ngầm khai thị: “Niệm Phật được nhất tâm chứng ngộ, thì Tịnh tức là Thiền vậy.

 

THIẾU KHANG ĐẠI SƯ
(Liên Tông Ngũ Tổ)

 

Thiếu Khang đại sư họ Châu, người đời nhà Đường, ở vùng núi Tiên Đô xứ Tấn Vân. Từ buổi sơ sanh, ngài im lặng không nói. Năm bảy tuổi nhân lễ trai hội, ngài theo mẹ vào chùa lạy Phật. Bà chỉ tượng Phật hỏi đùa rằng: “Con có biết đó là ai chăng?” Ngài bỗng ứng tiếng đáp: “Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn!”. Biết con mình có duyên lành với Phật pháp, cha mẹ ngài liền cho đi xuất gia. Căn cơ linh mẫn, đến mười lăm tuổi ngài đã thông suốt được năm bộ kinh.

Niên hiệu Trinh Ngươn năm đầu, Đại sư đến viếng chùa Bạch Mã ở Lạc Dương. Thấy chỗ để sách trong đại điện phóng quang, ngài lại tìm xem, thì áng sáng phát xuất từ tập văn Tây Phương Hóa Đạo của Thiện Đạo Hòa Thượng, ngài liền khấn rằng: “Nếu tôi có nhân duyên với Tịnh độ, nguyện tập văn này phóng quang một lần nữa!” Vừa dứt lời, ánh sáng lại càng chiếu ra rực rỡ, trong ấy ẩn hiện hình dạng các hóa Bồ Tát. Ngài chấp tay nói: “Kiếp đá có thể mòn, nguyện này thề không dời đổi!”.

Nhân đó, Đại sư đến Trường An, chiêm lễ di tượng của Thiện Đạo Hòa Thượng. Đang khi lễ tượng của Nhị Tổ bỗng bay lên, bảo ngài rằng: “Ông nên y theo lời dạy của ta mà phổ độ chúng sanh, ngày kia công thành, sẽ sanh về Cực Lạc!”. Đi ngang qua Giang Lăng, ngài gặp một Sư cụ bảo: “Ông muốn hoằng hóa, nên sang xứ Tân Định, cơ duyên ở nơi đó!” Nói xong bỗng biến mất.

Sau thời gian ấy, Đại sư, đến Tân Định, thấy người xứ này chưa biết niệm Phật là gì. Dùng phương tiện, ban sơ ngài quyên tiền dẫn dụ trẻ con niệm Phật. Nếu đứa nào niệm Phật được một câu; ngài liên thưởng cho một đồng tiền. Như thế hơn một năm, rồi không cần thưởng tiền, chúng nó cũng niệm. Tập quán lần quen, về sau lúc gặp đại sư ở trong nhà hay đi chơi ngoài đường, chúng cũng vẫn niệm. Từ đó, nam nữ, già trẻ, hễ thấy ngài đều niệm: A Di Đà Phật! Nhân sự việc này, dân chúng vùng ấy lần lượt phát tâm thờ cúng niệm Phật rất nhiều.

Thấy cơ duyên đã có phần thuần thục, Đại sư thành lập Tịnh độ đạo tràng ở Ô Long Sơn, xây đàn tam cấp. Cứ đến ngày trai, thiện nam tín nữ đều họp nơi đó để niệm Phật nghe pháp. Thường thường số người họp có trên ba ngàn. Mỗi khi thăng tòa, ngài chấp tay to tiếng niệm Phật, thì đại chúng ở dưới đều xướng niệm hòa theo. Có lúc Đại sư xưng một câu Phật hiệu, hội chúng thấy một đức Phật từ miệng ngài bay ra. Niệm đến mười câu, trăm, ngàn câu đều có mười, trăm, ngàn, ngàn vị Phật bay ra, liên tiếp như xâu chuỗi. Đại sư bảo: “Quí vị đã được thấy Phật, chắc chắn đều sẽ vãng sanh!” Mọi người nghe nói đều có cảm niệm vui mừng an ủi.

Năm Trinh Ngươn thứ hai mươi mốt, vào tháng 10, Đại sư họp hết hàng đạo tục đến dặn bảo rằng: “Các vị nên phát tâm chán lìa cõi ta bà ác trược, ưa thích miền Tịnh độ an vui, mà cố gắng tu hành tinh tấn. Giờ phút này ai thấy được quang minh của ta, kẻ ấy mới thật là hàng đệ tử”. Nói xong, ngài phóng vài tia sáng lạ đẹp dài, rồi ngồi yên lặng mà tịch.

Đại chúng xây tháp ngài ở Đài Nham, tôn hiệu là Đài Nham Pháp Sư.


       

          Quang, thọ khó suy lường,

          Sáng lặng khắp mười phương.

          Thế Tôn Vô Lượng Quang,

          Cha lành cõi Liên ban.

          Thần lực chẳng tư nghì,

          Sống lâu A tăng kỳ.

          A Di Đà Như Lai,

          Tiếp dẫn lên liên đài.

          Cực Lạc cõi thuần tịnh,

          Công đức lạ trang nghiêm.

          Nơi tất cả quần sanh,

          Vượt lên ngôi Bất thối.

          Mười phương hằng sa Phật.

          Đều ngợi khen Vô Lượng.

          Cho nên hôm nay con,

          Nguyện sanh về An Dưỡng.


NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Comments

Popular posts from this blog