NAM MÔ ĐẠI THÁNH CHUẨN ĐỀ VƯƠNG BỒ TÁT MA HA TÁT
(3 biến)
PHẬT MẪU CHUẨN-ÐỀ THẦN CHÚ
Chuẩn đề công đức tụ
Tịch tịnh tâm thường tụng
Nhứt thiết chư đại nạn
Vô năng xâm thị nhân
Thiên thượng cập nhân gian
Thọ phước
như Phật đẳng
Ngộ thử như ý châu
Định hoạch vô đẳng đẳng
Khể thủ quy y tô tất đế
Đầu diện đảnh lễ thất cu chi
Ngã kim xưng tán đại Chuẩn
đề
Duy nguyện từ
bi thùy gia hộ.
NAM MÔ THẤT CU CHI PHẬT MẪU SỞ THUYẾT
ĐẠI CHUẨN ĐỀ ĐÀ RA NI
NAM MÔ TÁT ĐA NẨM, TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ, CU CHI NẨM, ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA-BÀ HA.
(Quỳ thẳng và tụng tiếp sau đây)
Ngã kim trì tụng đại Chuẩn đề
Tốc phát Bồ đề quảng
đại nguyện
Nguyện ngã định
huệ tốc viên minh
Nguyện ngã công
đức giai thành tựu
Nguyện ngã thắng phước biến trang
nghiêm
Nguyện cọng chúng sanh thành
Phật đạo
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô
thỉ tham, sân, si
Tùng thân khẩu ý chi sở
sanh.
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối
Nguyện ngã lâm dục mạng
chung thời
Tận trừ nhứt thiết chư chướng ngại
Diện kiến bỉ Phật A Di Đà
Tức đắc vãn sanh an
lạc sát.
(đồng đứng dậy, xướng lạy ba lạy)
NAM MÔ ĐẠI THÁNH CHUẨN ĐỀ VƯƠNG BỒ TÁT MA HA TÁT
(3 lạy)
ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA-BÀ HA.
|
|
( Trì tụng đến KHI tương tục không gián đoạn, THÌ tấc cả vọng niệm không sanh khởi sẽ thấy LINH NGHIỆM hay QUÁN 9 chữ PHẠN hiện ra rõ ràng sẽ thấy LINH NGHIỆM )
THÀNH PHẬT TÂM YẾU
Trần Giác soạn
Ngũ Đài Sơn, Kim Hà Tự, Sa Môn Đạo Chân tập
Tỷ khưu Thích Viên Đức dịch
LỜI NÓI ĐẦU
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Kính bạch:
Quý vị thiện tri thức
Hơn mười năm qua, tôi y quyển HIỂN
MẬT VIÊN THÔNG này, gắng theo phương pháp trong đây tu trì. Tôi nhận thấy có nhiều sự linh nghiệm kết
quả. Để ứng dụng trong
đời mạt pháp, và giúp chúng sanh nghèo
hèn bạc phước muốn sở
cầu như ý…, tôi mong không quên sự hèn kém
của mình, đem tâm gắng dịch quyển sách này để ấn hành lưu thông.
Nếu có vị nào nhờ sách này mà phát tâm tu
quán, trì chú, được thêm phần tín nguyện mà hành
trì, thì tôi rất lấy làm mãn nguyện.
Tôi tự biết không tránh khỏi văn nghĩa vụng về thiếu sót,
kính mong quý Ngài hoan hỷ tha
thứ có chỗ nào sai lầm, giúp ý kiến cho
lần tái bản sau được đầy đủ hơn.
Nam Mô Chuẩn Đề Vương Bồ
Tát chứng minh.
CHÙA DƯỢC SƯ, Ban-mê-thuột,
Mùa Hạ - Phật Lịch 2515
Ngày Rằm,
Tháng Bảy, Tân Hợi (4-9-1971)
Dịch giả cẩn bút
Tỳ Khưu
THÍCH VIÊN ĐỨC
LỜI TỰA
CỦA SOẠN GIẢ
Xưa đức
Như Lai là bậc tôn quý xuất thế trong đời,
đem đạo pháp giáo hóa mọi người,
xiển dương pháp Đại Thừa, dắt
dẫn quần mê, mở bày ra muôn
pháp. Phương pháp tuy nhiều,
tùy lúc mà nói, nhưng mục đích vẫn
chỉ làm thế nào để vào được biển viên mãn, cho nên chỗ trở về chỉ
là Nhứt thừa (Phật thừa). Song, Hiển giáo Mật tông đều gồm thâu
cả tánh tướng. Nghĩa lý Hiển
giáo chia làm năm thời tóm lại gọi là Tô Đại Lãm (Kinh). Mật bộ bao
gồm ba tạng, riêng gọi là Đà Ra Ni (Thần
chú). Người đọc Hiển giáo cho rằng: Không, Hữu, Thiền, Luật trái nghịch
nhau, mà không xét tận đến viên lý, cứu cánh. Còn người học Mật bộ, lấy Đàn, Ấn, Chữ, Tiếng làm phép tắc, nhưng chưa
biết chỗ thần thông bí
áo. Vội cho Hiển giáo Mật tông mâu
thuẫn nhau, Tánh tông, Tướng
tông lỗ tròn cán vuôn khó ăn khớp nhau. Vì
thế sanh tâm chống trái, chê bai, hủy báng. Tóm lại chỉ thiên chấp
một khía cạnh nào đó, mờ mịt tánh viên
thông. Nếu không phải là bậc Chí Trí, làm sao dung hội được các
đầu mối sai khác, sự nghiệp có thành
tựu, người mới hoằng dương được đạo. Nay
vì Hiển Mật Viên Thông pháp sư,
trong thời bấy giờ, người đời suy tôn Ngài là bậc anh ngộ, thiên
tính của Ngài quá thông minh. Khi còn nhỏ tuổi, Ngài lễ lạy các bậc danh sư cầu học. Trải qua 15 năm học hỏi rất tịnh tường, nào là tham thiền hỏi đạo, học
rộng nghe nhiều, về mặc nội
điển Ngài tinh thông các tông Ngũ giáo. Ngoại điển,
Ngài thấu suốt các vấn đề bí
áo của trăm họ. Ái ố không giao xem, lợi danh chẳng màng đến. Đã thế
mà Ngài lại nhàm chán chốn đô
thành, lánh mình nơi hang núi.
Trải qua năm, tháng khổ hạnh, tận tụy đem hết chí lực nghiên cùng chỗ thâm
huyền của đại tạng thâu nắm những yếu lý tinh ba thuộc lòng nơi tâm
ý. Giải phẫu tất cả nghĩa lý rất rõ
ràng như các chỉ trên bàn tay. Ngài xem
khắp giáo lý Đại, Tiểu
Thừa, không ra ngoài hai đường: Hiển
Mật, cũng cùng một mục đích là chứng Thánh vị, nhập vào được Diệu đạo Chơn như .
Xét nơi văn thể thời có khác, nhưng đó cũng chỉ là sự vuông tròn
hơn kém của mâm bát, còn chỗ trở về nơi
chánh lý thời đồng nhau. Như cái đồ để trong nhà đều gồm thâu cả không, hữu.
Thế mà người học lại vọng sanh dị nghị, mời mịt không biết chỗ thông
dung. Nhơn đó thâu góp biên thành tập sách tâm
yếu này, văn thành một quyển, lý tận vạn
đường. Hội Tứ giáo tổng quy
về viên thông, thâu Ngũ mật bộ gồm
thành một bộ. Hoà nhũ tô thành đề hồ.
Thâu góp tinh ba, mây ráng làm thành cam lồ vị. Thật lạ chỗ hội yếu của
chư Phật. Đáng là kim chỉ nam cho người đời sau. Khiến ai xem vào đây như gặp được ngọc minh
châu như ý, chỗ sở cầu đều toại
nguyện. Mong mỏi các người nương theo đây mà thực
hành như ăn trái thiện khiến, không có gì
không lành.
Trần Giác này nghĩ hổ thẹn sự học hỏi còn sơ sài, lời văn không hoa lệ. Nhân gặp một ngày, tôi được đến thăm thầy tôi, may
mắn được nghe lời dạy dỗ như qua thủ phất trần, thoạt tiên tôi
mở mang được kiến thức hẹp hòi.
Thầy dặn dò tôi: Nên đem truyền lại cho người đời. Tôi vội soạn ra quyển văn
này, vẫn hổ thẹn với khả
năng diễn đạt lý mầu, nhưng
cũng lấy làm lời nói đầu.
Tỳ
Khưu Thích Viên Đức dịch
I.- HIỂN
GIÁO TÂM YẾU
Nguyên một đời giáo hóa của đức Như Lai, văn ngôn rộng
rãi, giáo lý sâu xa, Hiển Mật đều thâu tận hết thảy.
HIỂN: nghĩa là các thừa Kinh, Luật,
Luận.
MẬT: nghĩa là các bộ Đà ra ni (Thần chú)
Kể từ khi Ngài Ma Đằng truyền đạo vào
đời Hán, ba Tạng lần lần lan khắp xứ Trung Hoa. Ngài Vô Úy truyền
đạo vào đời Đường, ngũ mật ở Trung Hoa mới bắt đầu hưng thịnh, chín
phái đồng quy ngưỡng, bảy chúng đều tuân hành; lời nói pháp
không thị phi. Con người phân chia ra đường tu chứng, trải
qua nhiều năm bị phai mờ, sự hiểu lầm không phải là ít.
Hoặc có người học tập Hiển giáo, khinh chê Mật bộ, hoặc có kẻ chuyên Mật
ngôn, mờ mịt lý thú của Hiển giáo, hoặc chăm học danh
tướng, chưa biết được ngõ vào đạo; hoặc học chữ, tiếng, ít biết quy tắc trì
minh, khiến cho quán hạnh thậm thâm, biến thành danh ngôn. Hiển
Mật thần tông trở thành âm vận.
Nay tôi không so chút tài mọn, quyết
nương vào hai tông: Hiển Mật lược bày tâm yếu thành Phật.
Ngõ hầu hy vọng tương lai mọi người được viên thông,
nên nương vào giáo lý lược bày bốn môn:
1. Hiển giáo Tâm yếu
2. Mật giáo Tâm yếu
3. Hiển Mật song biện
4. May mắn gặp gỡ pháp môn vô giá này, hết lòng vui
mừng.
(Trong bốn đoạn dưới đây, vì tránh văn
nghĩa phiền phức, hoặc ám dụng Thánh giáo, hoặc dẫn nghĩa kinh văn,
người xem nên biết.)
Đầu tiên nói về Hiển giáo tâm
yếu, Ngài Hiền Phủ, Ngài Thanh Lương đều chia sự giáo hóa một
đời của Đức Phật ra làm năm thời:
1) Tiểu Thừa giáo: A
Hàm v.v…gồm có 600 quyển Kinh, Bà Sa v.v… hơn 600 quyển
Luận.
Nói tất cả pháp từ nhơn duyên sinh,
chỉ rõ ba cõi không an cũng như nhà lửa, thấu rõ chơn lý nhơn
không, tu hành tự lợi, sung sướng được chứng quả Tiểu
Thừa.
2) Đại Thừa Thỉ giáo: có
hai:
a) Pháp Tướng Tôn: Gồm
có Thâm Mật, Phật Địa Kinh v.v… có đến hàng mười bộ kinh. Du
Già, Duy Thức v.v… có đến hàng trăm quyển Luận, nói tất cả pháp đều
do Duy Thức, chỉ rõ chơn lý Nhị Không, tu Lục độ Vạn hạnh, thẳng
đến Đại Thừa Phật quả. Trong đó phần nhiều nói đến Pháp Tướng mà
thôi.
b) Vô Tướng Tôn: gồm có Bát
nhã v.v… hơn một ngàn quyển kinh. Trung Luận. Bách Môn Luận v.v… các
bổn luận văn đó nói tất cả các pháp bản lai là không. Vô thỉ mê
tình vọng nhận là có. Muốn chứng đạo Bồ đề lấy đó làm sở
đắc để tu tập vạn hạnh. Trong đây phần nhiều nói nghĩa Không, Vô
Tướng. Hai tông này đều là sơ môn của Đại Thừa cho nên gọi là Thỉ, nghĩa
là ban đầu vậy.
3) Nhứt thừa Chung giáo: Pháp
Hoa, Niết Bàn v.v… hơn bốn mươi bộ Kinh. Bảo Tánh, Phật
Tánh v.v… hơn mười bộ Luận nói tất cả chúng sinh đều có Phật
tánh. Từ xưa đến nay sáng suốt không mờ, tỏ rõ thường
biết, nhưng vì vô thỉ mê vọng, điên đảo không tự giác ngộ.
Muốn chứng Phật quả, trước hết phải tỏ ngộ Phật tánh của chính
mình đã có, sau mới đem tánh ấy tu tập: Bổn Hữu Vô Lượng Diệu
Hạnh. Ở đây hành toàn nói về Pháp tánh, là tận lý của giáo pháp Đại
Thừa cho nên gọi là Chung. Chung nghĩa là hết vậy.
4) Nhứt thừa Đốn giáo: Gồm
có Lăng Già, Tư Ích, Kinh văn. Ngài Đạt Ma đã truyền thiền
tông, nói tất cả vọng tưởng bổn không, chơn tâm bổn
tịnh, nguyên không có phiền não vốn là bồ đề, chỉ nói
Chơn tánh không nương cấp bực mà thành Phật, cho nên gọi là
Đốn.
5) Bất Tư Nghì thừa Viên giáo: Gồm
có Hoa Nghiêm nhứt Kinh, Thập Địa nhứt Luận, hoàn toàn nói:
Tỳ Lô Pháp Giới, Phổ Hiền Hạnh Hải. Trong đó đều có hoặc Sự,
hoặc Lý, hoặc Nhơn, hoặc Quả. Một mà đầy đủ tất cả trùng trùng vô tận.
Tổng hàm các pháp, không một pháp nào mà không thu nhiếp. Xứng tánh tự tại,
không chướng, không ngại xa hẳn các thiên thuyết nên gọi là Viên. Năm thời
giáo này, trước tiên là hẹp hòi, là quyền dụ, sau cùng là thâm
mầu, là chơn thật. Nếu lấy Viên giáo mà so sánh, bốn thời
giáo trước đều tạm quyền mà nói ra vậy.
(Nay căn cứ vào lý tương đối mà Luận, bốn thời trước là quyền, Viên giáo là thật. Nếu định chấp Viên giáo là thật, thì sẽ thiếu khuyết bốn thời trước, như thế không phải là kẻ thông suốt Viên giáo đầy đủ. Nếu năm thời giáo đều truyền bá, thì Thiên Viên cùng tán thán, hiệp được mọi căn cơ mới đầu đủ. Như trong Viên giáo dưới đây, đều bao gồm đầy đủ các giáo lý pháp môn trước, cho nên không tách riêng ra mà nói.)
Nay nương theo Viên giáo tu hành, lược
chia làm hai phần. Ban đầu ngộ Tỳ Lô pháp giới, sau tu Phổ
Hiền hạnh hải. Ban đầu ngộ Tỳ Lô pháp giới nghĩa là
trong kinh Hoa Nghiêm đã nói: Nhứt chơn vô chướng ngại pháp
giới, hoặc là nhứt tâm, ở trong đó đầy đủ ba thế gian:
1) Khí Thế Gian: là nói tất
cả quốc độ.
2) Chúng Thế Gian: là nói tất cả hữu tình
3) Trí Chánh Giác Thế Gian: là nói tất cả Thánh Nhơn.
Bốn Pháp Giới:
1) Sự Pháp Giới.
2) Lý Pháp Giới.
3) Sự Lý Vô Ngại Pháp Giới.
4) Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới.
Tất cả các pháp nhiễm tịnh, chưa
có một pháp nào ra ngoài pháp giới này. Đây là chơn tâm căn
bản của tất cả phàm phu, Thánh nhơn. Cũng là chơn thân căn bản.
Nói rộng Chơn Tâm có
hai:
1) Đồng Giáo Chơn Tâm
2) Biệt Giáo Chơn Tâm.
Đồng Giáo lại có hai:
1) Chung Giáo Chơn Tâm.
2) Đốn Giáo Chơn Tâm.
Trước hết nói về Chung Giáo Chơn Tâm: Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng: “Phải biết hư không sinh ra trong tâm của ông, cũng như một đám mây điểm giữa bầu trời xanh, huống là các thế giới ở trong hư không ư?”
(Chơn tâm của ta, cũng như bầu trời trong xanh. Mười phương hư không dường như một đám mây, tức biết chơn tâm rất lớn, hư không rất nhỏ. Hư không so với Chơn tâm cũng còn rất nhỏ, huống các thế giới ở trong hư không vậy ư? ).
Lại nói rằng: “Hư
không sanh trong đại giác, cũng như bọt nước sanh trong biển lớn. Vi
trần quốc độ hữu lậu, đều y hư không mà sinh”. Đại
Giác tức là tên khác của Chơn tâm, Chơn tâm rất rộng lớn,
cũng như đại hải. Hư không rất nhỏ, in tuồng một bọt nước. Huống
các quốc độ, đều y hư không mà sinh. Nếu so với Chơn tâm,
tức là nhỏ ở trong cái nhỏ.
Lại nữa, Chơn tâm biến khắp và viên mãn, bao gồm cả mười phương. Quán sát lại thân cha mẹ sinh ra, giống như trong mười phương hư không kia mà đem thổi một vi trần, thoạt còn, thoạt mất. Lại rằng:
(Không biết sắc thân, cho đến sơn hà đại địa, hư không đều là vật ở trong Diệu minh Chơn tâm.)
Lại rằng: “Tất cả các vật có trong thế gian đều là Bồ đề Diệu minh Chơn tâm.”
(Đã nói: Tức là Bồ đề Diệu minh Chơn tâm, không phải các pháp thế gian mà ở trong Chơn tâm riêng có tự thể. Tức biết hết thảy pháp giới, hư không, đại địa, hữu tình, vô tình, toàn là một vị Diệu minh Chơn tâm vắng lặng, thanh tịnh, không thêm, không bớt.).
Tất cả chúng
sinh từ vô thỉ đến giờ, mê ngất Chơn tâm; vọng nhận tứ đại làm
thân, duyên lự làm tâm. Thí như trăm nghìn biển lớn trong lặng không nhận, chỉ
nhận một bọt nước nhỏ. Nếu rõ thân tứ đại, tâm duyên lự, duyên
sinh không tánh, toàn là nước biển.
Gần đây có kẻ Nho sinh ít xem
kinh Phật, nghe nói Chơn tâm rất rộng lớn, mờ mịt chưa
tin.
Tôi xin nói thêm rằng: Đây chính
là đức Như Lai dạy: Chỉ có tự tâm mê muội, điên đảo không
thấy, đâu có thể tin là không có được. Như sách Trang Tử ở thế
tục còn nói rằng: Ở biển Bắc Minh có con cá, tên nó là Côn, cá Côn lớn
không biết bao nhiêu nghìn dặm; hóa làm con chim gọi là chim Bàng, lưng loại
chim này dài không biết bao nhiêu nghìn dặm. Lúc giận, nó bay lên và đôi cánh
che phủ như mây trời. Bay đến biển Nam Minh, nó đập nước tung lên ba nghìn dặm,
nổi sóng gió động đến chín vạn dặm. Ông Liệt Tử nói rằng:
Đời đâu biết có con vật như thế đó ư? Ông Đại Võ đi đường xem thấy, ông Bá
Ích biết mà đặt tên, ông Di Kiên nghe mà để ý. Không nên cho rằng mắt mình
không thấy vật đó, rồi không tin là có. Sách thế tục còn nói: Có
tướng vật kỳ lạ, huống nữa đức Như Lai đã nói Vô tướng Chơn
tâm vậy ư?
Luận Bảo Tánh nói rằng: Người ở trong
vỏ trứng làm sao thấy suốt được vũ trụ bao la? Câu nói đó thật là
đúng!
Sau đây nói về Đốn Giáo Chơn
tâm, nghĩa là tâm tuyệt đãi đầy đủ thanh tịnh, trong đó
không dung nạp một cái gì khác, tất cả vọng tưởng bản lai là
không, tuyệt đãi Chơn tâm bản lai thanh tịnh. Kinh Hoa
Nghiêm nói rằng: Pháp tánh bổn không tịch, không thủ
cũng không kiến; tánh không tức là Phật, không thể nghĩ lường
được.” Luận Khởi Tín nói rằng: “Tất cả các pháp từ vô thỉ đến
nay, xa lìa tướng nói năng, xa lìa tướng danh tự, xa
lìa tướng tâm duyên, rốt ráo là bình đẳng; không có
thay đổi biến dị, không thể phá hoại; chỉ là nhất tâm cho nên
gọi là Chơn như.” Về phần Chung giáo ở trước, tùy theo mê
muội của chúng sanh, nói có sắc thân, sơn hà, hư không, đại
địa, thế gian các pháp. Khiến các chúng sanh đổi vọng về
chơn. Rõ thấu sắc thân, sơn hà, hư không, đại địa, thế gian các
pháp, toàn là một vị Diệu minh Chơn tâm.
Nay trong Đốn giáo, vốn không
có sắc thân, sơn hà, hư không, đại địa, thế gian các
pháp. Vốn là một vị tuyệt đãi Chơn tâm. Cho nên Ngài Thanh Lương nói
rằng: Tóm lại không nói Pháp Tướng, chỉ biện rõ chơn tánh, tức
biết rõ châu biến pháp giới, vốn là một vị tuyệt đãi Chơn tâm, vắng
lặng thanh tịnh, không sanh diệt, tăng giảm.” Muốn hiểu rõ sự châu
biến của pháp giới, hãy ví dụ nó giống như một viên ngọc tròn
sáng, tỏ rõ, thanh tịnh, không hình không ảnh, không trong, không
ngoài. Ngài Thanh Lương nói rằng: “Thể tịch chiếu diệu độc
lập, vật ngã nhứt như.”
Ngài Đại Ma nói: “Pháp của ta
lấy tâm truyền tâm, không lập văn tự!” tức là truyền tâm này
vậy. Ngài Tào Khê nói: “Gương sáng vốn thanh tịnh, cần gì phải
lau chùi bụi trần ư?”, cũng là tâm này vậy. Tất cả chúng sanh từ
vô thỉ đến nay, không rõ tâm này, vọng thấy các tướng cũng như con mắt
bịnh, thoạt thấy hoa đốm giữa hư không. Kinh Viên Giác nói:
“Vọng nhận tứ đại làm tự Thân tướng. Bóng dáng của lục
trần là tự Tâm tướng”. Cũng như con mắt bịnh kia thấy hoa
đốm giữa hư không. “Nếu rõ Chơn tâm, vốn không có các tướng, như
trong hư không vốn không có các hoa đốm.” Kinh Viên Giác nói:
“Như Lai nhơn địa tu Viên Giác. Biết được không hoa đốm tức
không còn lưu chuyển, cũng không có thân tâm chịu sanh
tử. Không tạo tác cho nên là Không, vì bản tánh là Không.” Nay
trong Đốn giáo dụ như không hoa đốm rất là thiết yếu.
Ngày nay, người xuất gia học Thiền rất rộng, nhưng đến khi nghe khai
thị tâm này, phần nhiều không nhập thần được. Như có ông Diệp Công ưa
thích loài rồng, nhưng lúc có con rồng thật hiện ra trước
mắt, ông ta mặc nhiên không đoái hoài đến. Nếu chưa ngộ tâm
này, không gọi là bậc Chơn thiền định. Như vậy, muốn tu hạnh tham
thiền, trước hết phải tỏ ngộ nhất tâm này.
BIỆT GIÁO CHƠN TÂM: Nhứt chơn
vô chướng ngại đại pháp giới tâm, bao hàm ba thế gian, đầy
đủ bốn pháp giới, bao gồm cả đây, cả kia mà không chướng
ngại. Tức biết pháp giới bao la, trùm chứa mười phương, toàn là
nhứt chon đại pháp giới tâm. Ở trong nhứt chơn đại pháp giới
này đã có: Phàm, Thánh, hoặc Lý, hoặc Sự. Tùy theo đó nêu một pháp,
cũng đều toàn là đại pháp giới tâm.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hoa
Tạng thế giới đã có trần; trong mỗi một trần thấy pháp giới, lại
một trần đã là đại pháp giới tâm. Ở trong một trần đại pháp giới
này, lại nêu một trần, cũng toàn là đại pháp giới tâm. Hoặc thời
gian hoặc không gian trùng trùng nêu cử, trùng trùng đều
là đại pháp giới tâm.” Cho nên Ngài Thanh Lương trong Hoa
Nghiêm Thập địa phẩm sớ đã nói: “Đế võng vô tận nhứt tâm vậy”.
Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay mê vọng, không
biết vô tận pháp giới là tự thân tâm. Ở trong đó vốn
đầy đủ vô tận sắc tâm công đức, tức cùng với Tỳ Lô Giá Na, thân
tâm bình đẳng. Bỏ mất thân tâm Phật, vô chướng, vô ngại của
chính mình, điên đảo chấp làm tạp nhiễm chúng sanh. Thí
như Kim Luân Thánh Vương thống trị tứ thiên hạ, thân trí
đầy đủ, giàu vui không ai sánh bằng. Thoạt tiên ngủ mê, mộng
thấy làm thân con kiến, ở trong mộng chỉ nhận thân mình là kiến, không biết
mình là Luân Vương.
(Vô tận pháp giới của Phật,
đời khó thấu được, nay chỉ dụ nghĩa: Mê chơn, chấp vọng, người trí phải nên
biết.)
Vậy muốn cầu thành tựu cứu
cánh Phật quả cần phải ngộ Tỳ Lô pháp giới, nếu chưa
ngộ pháp giới này, dù trải qua nhiều kiếp tu tập vạn
hạnh, cũng uổng công nhọc xác, không được gọi là Chơn thật Bồ
Tát. Cũng không thể sinh trong nhà của đức Như Lai. Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Không rõ nơ tự tâm, làm sao biết Thánh đạo, trí huệ bị điên
đảo, do đó tăng trưởng tất cả sự ác. Ngài Thanh Lương nói:
“Không nương sự ngộ này, việc làm không chơn chánh, sự tu hành của
mình sẽ ràng buộc thành nghiệp.” Vô tận pháp giới nhứt
tâm này, người ít hay biết, biết cũng ít tin, tin cũng ít hiểu, hiểu cũng
khó đạt đến cảnh giới đó. Vì vậy Bồ Tát nhiều
kiếp không tin, không hiểu. Thượng thủ Thanh Văn như đui, điếc.
Nếu là người có túc căn viên mãn, nên chú ý ở đây, ai dốc lòng tri
ngộ, đương nhiên ngày nay sanh vào nhà của Phật.
Sợ người khó tin, tôi xin kể câu
chuyện trong Pháp Uyển Châu Lâm: “Có một người ảo thuật, đi
đường thấy một kẻ gánh một gánh, trên có cái lồng có thể chứa được vài thùng.
Người ấy bảo kẻ gánh rằng: Tôi đi bộ mệt mỏi quá, muốn chun vô lồng của
ông để nghỉ chân, mong ông vui lòng cho tôi được như ý. Người
gánh bèn suy nghĩ cho đó là kẻ khùng, bèn nói: Ông thử vào xem. Người
kia bèn nhảy vô lồng một cách nhẹ nhàng. Tuy lồng chẳng lớn mấy mà người ảo
thuật cũng không phải là nhỏ. Người gánh đi mãi vẫn không thấy nặng. Đi
được vài mươi dặm đường, ông ta đặt gánh bên gốc cây và ăn uống, bèn mời
người ảo thuật cùng ăn. Người ảo thuật nói rằng: Tôi cũng
có đầy đủ thức ăn. Người gánh nhìn vào lồng thấy các vật dụng chứa
đầy đồ ăn uống, bèn mời người ảo thuật cùng ăn. Người ảo
thuật bảo người gánh rằng: Tôi muốn cùng ăn với vợ tôi. Nói xong, y hả
miệng nhả ra một người con gái dung mạo đẹp đẽ và hai người
cùng ăn uống. Ăn xong, người chồng ngủ, còn cô vợ bảo người gánh rằng: Tôi
có một tình nhân muốn đến dùng bữa với tôi. Khi chồng tôi thức dậy, ông
chớ nên nói lại việc này. Cô gái liền há miệng nhả ra một tình nhân rồi
cùng ăn uống. Cả ba người đều ở trong lồng vẫn không thấy chật hẹp. Lát
sau, người ảo thuật cựa mình sắp thức dậy, anh tình nhân
bảo người gánh: Chào ông, tôi đi! Cô gái liền bỏ tình nhân vào miệng và
đồ ăn uống cũng cất hết trong mồm. Rồi lúc đó người ảo thuật thức
giấc cũng đem vợ bỏ vào miệng.” Đó là truyện tiểu thuyết của thế gian, trùng
trùng dung nhan như thế, mà không bị chướng ngại pháp giới ư?
Vậy cần phải suy xét cho chín
chắn mà tin, suy nghĩ để thấu hiểu. Chớ nên cao suy Thánh
cảnh, luống dối một đời không lợi ích.
TU PHỔ HIỀN HẠNH HẢI: Đã ngộ được vô chướng ngại pháp giới vốn tự
tâm ta, trong đó vốn đầy đủ mười Hoa Tạng thế giới vi trần số tướng
hảo, đế võng, vô tận thần thông công đức. Cũng mười
phương chư Phật không sai khác; ngặt vì vô thỉ, vọng tình chấp
chặt, tập dĩ tánh thành, cuối cùng khó đoạn dứt. Để khiến cho thần
thông công đức của chính ta không thể thọ dụng một cách tự
tại. Cho nên cần phải xứng với Tỳ Lô pháp giới của
chính mình, tu tập bản hữu Phổ Hiền Hạnh Hải, làm cho vô
tận công dụng mau được hiện tiền.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tu pháp này
ít làm công lực, mau chứng Bồ đề. Tuy Phổ Hiền Hạnh Hải
rộng bao la không bờ bến.” (Tất cả hạnh môn trong Tạng giáo đã
nói đều là Hoa Nghiêm Phổ Hiền Hạnh, chỉ ứng căn cơ thiển
cận mà quyền chỉ, nên nêu ra đây một ít mà thôi.)
Nay nói Quán Hạnh Pháp Lược
có năm môn:
1) Quán Chư Pháp như mộng
huyễn.
2) Quán Chơn Như tuyệt tướng,
3) Quán Sự, Lý vô ngại.
4) Quán Đế Võng vô tận.
5) Quán Vô Chướng ngại pháp giới.
Trước hết: 1) Quán các pháp như mộng
huyễn: (Tức đương sự pháp giới quán) nghĩa là thường quán các pháp
nhiễm, tịnh, tất cả không thật, đều như mộng huyễn. Kinh Hoa Nghiêm nói:
“ Cũng như trong chiêm bao, thấy các hình tướng sai khác; thế
gian cũng như vậy, như mộng không khác.” Lại nói: “Độ thoát tất cả chúng
sanh phải biết các pháp đều như huyễn; chúng sanh không
khác huyễn, hết huyễn không còn chúng sanh.” Và kinh Kim Cang có
dạy: “Tất cả các pháp hữu vi như chiêm bao, bọt nổi, như sương
mù, điện chớp, thường quán xét như vậy.” Ngài Triệu Công nói: “Hư vậy, Vọng
vậy, ba cõi không thật; Mộng vậy, Huyễn vậy, sáu đường không
vật.” Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, chấp tất cả pháp cho
là có thật, khiến khởi hoặc tạo nghiệp, tuần hoàn trong sáu
đường. Toàn thể không thật, đều như mộng huyễn thì ái
ố tự nhiên tiêu diệt, lòng bi trí tự nhiên tăng trưởng, sáng
suốt. Quán mộng huyễn trong Viên Giác Sớ gọi là: “Khởi
Huyễn tiêu trần quá. Trong Thiên Thai gọi là Giả quán, cũng còn
gọi là “Phương tiện tùy duyên chỉ”. Phân minh, soi chiếu, gọi là
Quán, vắng lặng không loạn động gọi là Chỉ. Tức là trong
Quán có chỉ, trong chỉ có quán mới là chỉ quán song vận, các
phép chỉ quán khác nương theo đây mà rõ. Hoặc có người tuy tin
hiểu Viên giáo mà phiền não nặng nề, không thể tu tập quán mộng
huyễn được nên tu quán bất tịnh. Nghĩa là quán sát thân
này có năm món không sạch.
a)Chủng tử bất tịnh: Nghĩa là
tinh cha, huyết mẹ, hai chất trắng đỏ hòa hợp mà thành. Trí Độ
Luận nói: “Thân là giống không sạch, không phải các vật nhiệm mầu, quý
báu, không do chất trong sạch sinh ra, mà sinh ra từ nơi dơ
uế.”
b)Trụ xứ bất tịnh: Là ở trong bụng mẹ,
dưới sanh tạng, trên thục tạng chảy ra chất không sạch, ô uế đầy dẫy, mà lại ở
ngay trong đó. Lại như Hải Sơn nói: Đồ không sạch mà đem làm áo trang sức, còn
thứ ô uế thì lấy làm vật ăn uống.
c)Tự thể bất tịnh: Gồm có ba
mươi sáu vật, đều cùng hòa hợp không sạch. Nói ba mươi sáu là: bên
ngoài có mười hai phần: Tóc, lông, móng, răng, mồ hôi, đại, tiểu, ghèn, mũi,
đàm, dãi, nước miếng. Lại có mười hai phần: Da, da ngoài, huyết, nhục, mỡ, đầu,
óc, màng mỏng, xương, tủy, gân, mạch. Bên trong gồm có mười hai: Tim,
gan, mật, phổi, lá lách, thận, ruột, dạ dày, sanh tạng, thục tạng, đàm đỏ, đàm
trắng. Tức là từ đầu đến chân đều không sạch. Ngài Vĩnh Gia dạy: “Cái
đãy đầy phân nhơ là chỗ chứa tụ máu mủ; chảy ra những chất không sạch, là
chỗ ở của vi trùng giòi giun, quán cá ươn, hầm tiêu, cũng không sánh
kịp.”
d)Tự tướng bất tịnh: Là chín chỗ
(cửu khiếu) thường chảy ra các chất dơ nhớp. Cửu khiếu: là hai tai xuất ra
chất dơ; hai mắt chảy ghèn và nước; hai lỗ mũi chảy ra nước mũi; miệng chảy ra
đàm dãi; đường đại tiện ra phân dơ; tiểu tiện chảy ra nước khai
hôi. Trí Độ Luận nói: “Các vật không sạch chứa đầy trong thân, thường
chảy ra các thứ không sạch như cái đãy rách đựng đồ vật dơ.”
e)Cứu cánh bất tịnh: Nghĩa là khi
thân hoại mạng chung, sình to, hôi thúi, máu mủ nứt rã, không
dám lại gần. Ngài Thiên Thai nói rằng: “Từ chân đến đầu, từ đầu đến
chân, tuần tự quán sát, chỉ thấy sình lớn, nứt rã, trong đường
đại, tiểu tiện giòi trùng theo máu mủ bò ra, thúi hơn con
chó chết.” Kinh Tâm Địa Quán dạy: “Nên quán sát tự thân
mình hôi thúi, không trong sạch, cũng như chó chết”. Kinh Kim Quang
Minh nói rằng: “Ta từ lâu hầu hạ thân hôi thúi này, máu mủ chảy
ra không thể thương mến được. Tuy thường cung cấp nuôi
dưỡng, nó vẫn ôm sự oán hại. Cuối cùng bỏ ta, nó chẳng biết ơn. Quán
sát tự thân mình xong, lại quán sát thân kẻ khác hoặc nam hoặc
nữ, đã có thân thì có đủ năm món bất tịnh.” Cho nên Luận Khởi Tín nói
rằng: “Nên quán tất cả những thân có trong thế gian đều là bất
tịnh.” Các món dơ uế không có một cái gì đáng thương. Đã quán sát đều
là bất tịnh, tâm tham ái tự nhiên không khởi. Kinh A
Hàm nói rằng: “Xưa có một vị quốc vương đắm mê sắc dục không nhàm
chán. Có vị Tỳ Kheo lấy một bài kệ can gián rằng:
- Mắt là một cái hang chứa ghèn, lệ,
- Mũi là cái đãy dơ chứa mũi, dãi.
- Miệng là đồ đựng đàm dãi.
- Bụng là kho chứa phẩn niếu.
Chỉ có vua không có mắt huệ, bị sắc
dục làm mờ mịt. Bần đạo thấy gớm, cho nên xuất gia đi tu
đạo tràng.” Ngài Thiên Thai dạy rằng: “Tuy quán sát bất
tịnh mà hay thành đại sự. Như thây chết trong biển, nương nơi đó mà
vào bờ.
Hoặc là quán bộ xương trắng: Trước
hết quán tưởng cái thân của mình da thịt nát rã, chỉ thấy
xương trắng lần lần từ hẹp đến rộng. Tưởng nơi một cái đầu da thịt rã
rời, chỉ thấy xương trắng cho đến toàn thân đều là xương trắng.
Đã quán thân mình đầy đủ một bộ xương trắng phân minh hiện
rõ, rồi lại quán người khác rã rời cũng vậy. Lần lượt quán
hết một cái phòng, một ngôi chùa, một thành lũy, một quốc gia cho đến khắp
đất đai, lấy biển làm biên giới, sẽ thấy đầy những bộ xương trắng. Muốn
cho quán tâm tăng trưởng, lại quán lần lượt từ rộng đến
hẹp. Quán một quốc độ là một bộ xương. Lần lần sẽ thấy một thành, một
chùa, một phòng, một bộ xương đầy đủ. Rồi quán bộ xương đó cho tới lúc chỉ thấy
một chút xương trắng ở giữa chặn mày. Thấy giữa chặn mày rồi chuyên chú một
chỗ vắng lặng mà an trụ, như vậy tu tập cho đến khi
đắc định. Quán này thành tựu thì tất cả tham ái tự nhiên tiêu
diệt.
Hoặc Quán Sổ Tức: Nên từ cạn đến
sâu, lần lượt tiến tu. Trước hết phải tự mình điều hòa hơi thở,
không rít, không nghẹt. Nhứt tâm chuyên chú đếm hơi thở ra
vào. Trước hết, đếm hơi hít vào, sau đếm hơi thở ra, từ một đến
mười, xong rồi đếm lại thế mãi, tâm tưởng nơi đếm, đừng cho tán
loạn. Nếu thấy, không cần cố sức mà đếm dễ dàng từ một đến mười trong hơi
thở; lúc đó lại nhứt tâm theo hơi thở ra vào. Khi hít
vào, tâm cũng theo hơi vào, từ mũi đến yết hầu, từ yết hầu đến tim, đến rú,
đến đơn điền, bắp vế, ống chân cho đến bàn chân, ngón chân.
Khi hơi thở ra, tâm cũng theo hơi thở ra. Hơi thở ra
xa ngoài thân cho đến một gan, một tầm. Nhứt tâm theo dõi hơi
thở ra vào; nếu thấy tâm và hơi thở nương nhau dễ dàng, bây giờ
nên buộc niệm, đình chỉ tại giữa chặn mày, hoặc ở nơi đầu mũi, dừng
tâm tại đó, quán hơi thở an trụ nơi thân, như sợi chỉ xâu hạt châu,
hoặc lạnh hoặc ấm, hoặc thêm hoặc bớt. Nếu thấy, thân vắng lặng khoái
lạc, an vui, rồi lại quán sát hơi thở nhẹ nhàng, vi tế.
Lại quán tâm thức sát na không trụ. Như vậy tu tập, cảm
giác biết hơi thở ra, vào, khắp lỗ chân lông. Tâm nhãn khai
minh, thấy sáng suốt trong thân ba mươi sáu vật và các trùng bọ, lúc
bấy giờ đã đắc định; rồi lại chăm tu các hạnh môn khác. Ở đây, vì sợ phiền
phức nên tạm chấm dứt.
Như trong kinh nói: Quán hơi thở ra,
vào là bước đầu vào đạo của chư Phật ba đời vậy.
Hoặc Quán Ngã Không: Nên cần
phải để ý suy tìm, thân này bản lai vốn không có Ta (vô ngã).
Chỉ là sắc tâm, hai pháp hòa
hợp mà thành. Sắc có bốn loại: đất, nước, gió, lửa. Nghĩa là cấu sắc:
Lông, tóc, móng, răng, da, thịt, gân, cốt, tủy, não, đều là đất. Mũi, đàm
dãi, máu mủ, nước miếng, nước bọt, tinh khí, đại, tiểu tiện đều
là nước. Hơi nóng là lửa. Sự động chuyển “hô hấp” là gió. Tâm có bốn
loại: thọ, tưởng, hành, thức. Thọ nghĩa là lãnh nạp; giữ lấy hình
tượng bóng dáng, đó là Tưởng; tạo tác là Hành; rõ biết, phân biệt là
Thức.
Ở trong tám loại này, cái nào là Ta? Nếu
đều là Ta thì có tám cái Ta. Hơn nữa ở trong thân thể đã có ba trăm
sáu chục đoạn xương, mỗi đoạn đều riêng. Da, lông, gân, thịt, gan, tim, phổi,
thận, mỗi cái không giống nhau. Thấy không phải là nghe. Vui không phải là
giận. Đã có nhiều vật như thế, không biết định lấy cái nào để làm Ta. Nếu đều
là Ta cả, thì sẽ có cả trăm ngàn cái Ta. Trong một thân sanh nhiều phân
đoạn. Xa lìa nó, sẽ không có pháp riêng khác, tìm tòi kỹ
lưỡng cái Ta, cũng không thấy đâu cả. Đã biết thân này là do
duyên giả hợp với nhau. Bản lai không có Ta. Hành giả ngày
đêm thường tu phép quán rất nhiệm mầu này. Bởi vì tất cả chúng sanh từ
vô thỉ đến giờ, chấp thân này là Ta; do đó mà quý trọng nó,
tham cầu danh lợi, muốn đem vinh quang lợi ích cái Ta.
Tức giận cảnh nghịch vì sợ nó xâm phạm đến Ta. Tâm tình ngu si,
đã so sánh một cách trái lý. Nay đã thường quán thân này: Bản
lai không có Ta, tức tam độc tự diệt, tam độc diệt
rồi, ba cõi tự xa lìa vậy.
Hoặc Quán Pháp Không: Nên
cần quán xét hai pháp sắc tâm của thân này: Sắc có: Địa, thủy, hỏa,
phong. Tâm có: Thọ, tưởng, hành, thức. Nơi tám pháp này mỗi pháp quán
xét đều do duyên sanh, không có tự tánh. Thể của tám pháp là
không. Sơ tâm của hành giả nên tu quán môn này.
Tùy nơi tâm tam ưa thích một, hoặc hai, cho đến năm pháp
quán đều được tu tập. Tâm quán pháp môn chỉ quý ở sự tu
luyện, luyện mới có giá trị, nói suông chẳng lợi ích chi.
2) Chơn Như Tuyệt Tướng Quán: (Tức
đương lý pháp giới quán) ở trong an tâm lại có ba
môn:
a)Thường quán toàn thể pháp giới, chỉ là một vị thanh tịnh chơn như. Vốn không có sự tướng sai khác. Trí năng quán này cũng là một vị chơn như. Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Tất cả các pháp vô sanh; tất cả các pháp vô diệt. Nếu hiểu như vậy, các Phật thường hiện tiền”. Thất Tổ thiền sư lại nói rằng: “Niệm vô niệm, tức là niệm chơn như”. Đức Lục Tổ giải thích vô niệm rằng: “Không, là không có các tướng; niệm, là niệm chơn như”, đây mới tưởng niệm các pháp toàn là chơn như. Nhưng tưởng niệm vốn là tướng của vô tưởng niệm; cho nên Luận Khởi Tín nói rằng: “Tuy niệm không có cái năng niệm, để mà niệm.” (Sở tưởng chơn như ở đây tức là tuyệt đãi Chơn tâm trong Đốn giáo đã nói trước. Hạnh môn này thường tưởng tất cả pháp, chỉ là một vị thanh tịnh chơn như, vốn không sanh diệt. Đó gọi là Chơn như tam muội, cũng gọi là Nhất hạnh tam muội, hay là Vô sanh tam muội.)
b)Nếu tu niệm khởi, chỉ khởi giác
tâm. Cho nên Ngài thất tổ nói rằng: “Khi niệm khởi liền biết, biết
tức liền không; tu hạnh diệu môn chỉ ở nơi đây; tức là giác tâm này,
gọi là quán. Đây cũng tuy khởi giác tâm, vốn không có tướng khởi giác.”
(Hạnh môn này, trong tất cả thời, nếu khởi tâm niệm, chỉ khởi giác
tâm. Đây chính là tu hạnh yếu môn nhiệm mầu vậy).
c)Xét tâm là sai, động niệm liền trái,
chỉ để tâm mà không ký thác vào, lý huyền diệu này sẽ
tự lãnh hội. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Pháp tánh
vốn không tịch, không thủ cũng không kiến. Tánh không tức
là Phật, chẳng thể suy lường được.” Cổ đức nói rằng: “Thật
tướng xa lìa nói và nghĩ; chơn như vượt lên trên thấy và
nghe. Đây là chỗ an tâm; học sự khác sẽ uổng công…” Ở đây cứ theo bổn
tánh tự chiếu, chứ không khởi sanh huệ giải mới mẻ nào. Cho nên kinh Viên
Giác dạy rằng: “Chỉ cần các Bồ Tát và mạt thế chúng
sanh ở tất cả thời không vọng niệm; nơi các vọng tâm cũng
không dứt bỏ. An trụ ở cảnh vọng tưởng, không thêm liễu. Ở nơi không liễu
trí, không biện chơn thật”. Ngài Hiền Thủ lại dạy rằng: “Nếu khởi
tâm làm phàm, làm Thánh không phải là chơn hạnh; không làm tất cả hạnh,
hạnh tâm không nương ký vào đâu cả, đó gọi là Đại Hạnh.” Môn này
lấy bổn tánh tự chiếu, gọi là quán “Hạnh môn này trong tất cả thời, tâm vô
sở ký đó gọi là chơn tu. Tuy tu đủ vạn hạnh, ở trong vạn hạnh,
tâm vô sở ký…”. Thiền tôn ở Trung Hoa bảy đời Tổ Sư, chỗ truyền
tâm yếu có ba môn; mà nhiếp tận hết thảy, không để sót gì cả.
1)Kiến Tánh Môn: Trước cần
phải liễu ngộ tuyệt đãi Chơn tâm. Tất cả vọng tưởng bổn
không, Chơn tâm bổn tịnh; tức tâm là Phật. Không nhờ ngoại
cầu, tức là Đốn giáo Nhứt tâm nói ở trên.
2)An Tâm Môn: Như ba môn tưởng
niệm chơn như đã nói ở trên.
3)Phát Hạnh Môn: Cần phải đầy
đủ tu Bồ Tát Lục độ Vạn hạnh. Đủ y ba môn tức là chánh thiền; thiếu
đi một môn sẽ trở thành thiên kiến. Ngài Đạt Ma nói rằng:
“Pháp của ta, lấy tâm truyền tâm, không lập văn tự. Tâm này
là bổn giác thanh tịnh của tất cả chúng sanh, cũng gọi
là Phật tánh. Muốn cầu Phật đạo cần phải ngộ tâm này, tức
là Kiến Tánh Môn”. Lại nói rằng: “Do đó an tâm, gọi là quán vách
khiến cho kẻ đạo nhơn tu tập, tâm an trụ chơn lý. Tịch
nhiên vô vi, ví như tường vách, không khởi phân biệt tức
là an tâm môn.” Lại nói rằng: “Như vậy phát hạnh, có bốn hạnh”:
a)Báo Oán Hạnh: Nghĩa là kẻ tu
hành lúc gặp sự khổ sở phải tự nghĩ rằng: Ta từ xưa, trải qua bao số
kiếp, bỏ gốc theo ngọn, trôi nổi trong các thú, khởi lên nhiều ghét
oán, gây ra nhiều điều bậy bạ, nguy hại. Nay tuy không phạm, nhưng vì ác
nghiệp, túc oán đã chín muồi, chẳng phải trời hay người đem lại, cam tâm
nhẫn chịu mà không oán trách. Kinh dạy rằng: “Gặp khổ không buồn. Vì
sao? Đã hiểu thấu vậy!”
b)Tùy Duyên Hạnh: Nghĩa là đạo
nhơn tu hành nếu được các việc quả báo thù thắng vinh
dự, phải tự mình nghĩ rằng: Tất cả pháp đều từ duyên sanh. Vì quá khứ ta
tu nhơn đã cảm nay mới được. Duyên hết rồi, trở lại hoàn không; có gì
phải vui mừng. Được, mất tùy duyên, tâm không tăng giảm,
gió vui không động; gió giận không sanh.
c)Vô Sở Cầu Hạnh: Đời người mê
dại, nơi nơi tham trước gọi là tìm cầu. Người trí khi ngộ chơn lý,
xem thấy tam giới, chín cõi cũng như nhà lửa. Có thân đều phải khổ, đâu
được sự an vui, ở trong tam giới, không còn chỗ mong vui. Kinh dạy rằng:
“Có cầu đều khổ, không cầu mới vui”.
d) Xứng Pháp Hạnh: Nghĩa là tánh
tịnh chơn lý gọi là pháp, mà tánh này vốn không keo kiệt cùng tất cả
vạn ác khác. Nên xứng lý tánh mà tu bố thí v.v… Tất cả vạn thiện,
riêng bốn hạnh này tức là phát hạnh môn. Ngài Thảo Đường Thiền Sư, ở
trong kinh Viên Giác Sớ cũng có ba môn, đều giống như vậy.
1)Trước hết phải ngộ Viên Giác tánh:
Nghĩa là nhứt vị thanh tịnh Chơn tâm.
2)Phát Bồ đề tâm: Nghĩa là đại bi, đại
trí, đại nguyện.
3)Sau rồi tu Bồ Tát hạnh: Nghĩa
là Lục độ Vạn hạnh các pháp.
Ba môn này rất thiết yếu cho người học
Thiền, nếu không viên tu ba môn, không do đâu thể xa lìa các tà
kiến. Từ xưa đến nay Ngữ Lục của các nhà Thiền tôn, đa số chỉ
ứng theo thời, theo căn cơ hoặc chỉ nói đến kiến tánh, hoặc chỉ
nói an tâm, hay chỉ nói phát hạnh. Lại như trong nơi an tâm, phát
hạnh, lại mỗi mỗi có nhiều đường lối, hoặc chỉ rõ một đường lối v.v… Nay các
môn này, tâm nếu không đạt; nhiên hậu xem đến Thiền giáo khác
mới biết được quy chỉ.
3)Quán Sự Lý Vô Ngại: (Tức
là đương sự vô ngại pháp giới quán). Nghĩa là thường quán tất cả các
pháp nhiễm tịnh duyên sanh vô tánh, toàn là chơn lý. Chơn lý là
tất cả các pháp nhiễm tịnh. Như quán sóng, toàn là tánh ướt, tánh ướt toàn
là sóng. Cho nên Khởi Tín Luận nói rằng: Tuy nghĩ các pháp tự tánh
không sanh, nhưng lại nghĩ đến nhân duyên hòa hợp. Các nghiệp:
thiện, ác, quả báo, khổ vui, không mất, không hoại. (Lý bất ngại Sự vậy,
như tánh ướt tuy có một, không chướng ngại cho việc sanh ra nhiều
sóng). Tuy nhớ nghĩ nhân duyên thiện ác, nghiệp báo mà cũng
liền nghĩ đến tánh của nó không có. (Sự bất ngại lý vậy. Như sóng mòi tuy
nhiều, nhưng không ngại toàn thể là tánh ướt.)
Nếu tu tập: Giả, Không, Trung –
ba pháp quán, nghĩa là tưởng tất cả các pháp đều duyên sanh không tự
tánh, thể của nó là không, tức là Không quán. Như quán những hình
tượng trong gương, toàn là không có thật thể. Nếu tưởng tất cả các pháp,
tuy có mà không thật, đều như chiêm bao huyễn hoá, tức là Giả
quán. Như quán những hình bóng trong gương, có mà không thật. Nếu tưởng
tất cả các pháp, toàn là một vị diệu minh Chơn tâm, nhu trước chung
giáo đã nói rõ, Chơn tâm rộng lớn ấy, tức là Trung quán.
Như quán cái gương sáng. Ba phép quán này, hoặc là riêng tu một môn, hay
là tiệm thứ đều tu, hoặc là một thời đồng tu, tùy ý lấy hay
bỏ như đồ dùng.
4) Đế Võng Vô Tận Quán:
(Tức là đương sự sự vô ngại quán). Trong đây lược bày có năm
môn:
1) Lễ kính môn.
2) Cúng dường môn.
3) Sám hối môn.
4) Phát nguyện môn.
5) Trì tụng môn.
1)Lễ kính môn:Nghĩa là
tưởng hư không khắp pháp giới: trần trần sát sát
trước đế võng vô tận Tam-Bảo, có mỗi đế võng vô tận tự
thân mình. Mỗi mỗi thân mình đều lễ lạy đế võng Tam-Bảo vô
tận. Trước mỗi ngôi Tam-Bảo có đế võng Tam-Bảo tự thân lễ bái.
Lại tưởng một môn này, tận hết đời vị lai tế, không thôi nghỉ, niệm
niệm tương tục, không gián đoạn, thân ngữ ý nghiệp không có nhàm
mỏi (Hoặc trong lúc ngồi thiền quán tưởng; hoặc sớm chiều lễ
Phật, khi tu tập kiểm niệm. Nhập quán môn này công đức vô
tận). (Ngài Thanh Lương nói rằng: Không nhập pháp quán này, tự mình
mệt nhọc uổng công. Hoặc thuần nhập được môn này, thì tưởng khắp pháp
giới toàn là Tỳ Lô Phật hoặc Chuẩn Đề v.v... Mỗi trước một tôn
tượng, tưởng một thân mình lễ Phật. Tu tập cho đến thuần
thục, lần lần tăng trưởng đến 100, 1000 Tôn vị Phật cho đến vô
tận. Mấy pháp cũng y theo môn này mà tu tập.)
2)Cúng dường môn: Tưởng tận hư
không khắp pháp giới trần sát đế võng trước vô
tận Tam-Bảo, có mỗi đế võng vô tận đồ cúng dường đầy
đủ, các sự cúng dường đế võng vô tận Tam-Bảo. Trước mỗi một
ngôi Tam-Bảo, có đế võng vô tận thân cúng dường. Lại tưởng
một môn này khắp hết đời vị lai tế không nghỉ ngơi. Niệm niệm nối
nhau không gián đoạn. Thân, ngữ, ý, nghiệp không nhàm mỏi. (Hoặc
trong khi ngồi tưởng cúng dường trước Phật, hoặc thiêu hương, dâng
hoa, luyện tập nhập pháp quán này. Nếu không có hương hoa,
chỉ chấp tay nhập quán môn này, công đức cũng phát
sanh vô tận).
3)Sám hối môn: Tưởng tận hư
không khắp pháp giới, trần trần sát sát đế vọng vô tận trước
Tam-Bảo, có đế võng vô tận thân. Mỗi mỗi một thân đều đem hết
lòng chí thành sám hối đế võng vô tận tội chướng.
Nghĩa là từ hồi nào đến thân ngày nay, đã tạo các tội ngũ nghịch, thập
ác, các phiền não sở tri chướng. Mỗi mỗi một thân, sám hối đế
võng vô tận tội chướng. Mỗi mỗi tội chướng, có đế võng vô
tận thân sám hối. Tổng tưởng một môn này hết thảy đời vị lai tế
không bao giờ nghỉ ngơi. Mỗi mỗi niệm nối nhau không gián đoạn. Thân,
ngữ, ý nghiệp nối nhau không nhàm mỏi. (Hoặc trong khi ngồi
tưởng sám hối, trước Phật sám hối, nên tu tập quán môn này.)
4)Phát nguyện môn: Tưởng tận hư
không pháp giới, trần trần sát đế võng vô tận, trước
Tam-Bảo có đế võng vô tận thân. Mỗi một thân phát đế võng vô
tận nguyện. Nghĩa là: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Phiền
não vô tận thệ nguyện đoạn. Phật pháp vô biên thệ
nguyện học. Vô biên phước trí thệ nguyện tập. Vô
thượng Bồ đề thệ nguyện thành. Đem tất cả tự tâm dã an vui
với thiện nguyện mà tổng phát. Mỗi mỗi một thân phát đế võng vô tận nguyện.
Mỗi mỗi một nguyện có đế võng vô tận thân phát. Tổng tưởng một
môn này hết đời vị lai tế không nghỉ ngơi. Mỗi mỗi niệm nối nhau
không gián đoạn. Thân, ngữ, ý nghiệp không nhàm mỏi. (Trong lúc
ngồi niệm luyện trước Phật, khi phát nguyện tu tập pháp quán
tưởng này.)
5) Trì tụng môn: Tưởng tận hư
không khắp pháp giới, trần trần sát sát đế võng vô
tận trước Tam-Bảo, có các đế võng vô tận thân. Mỗi mỗi một
thân trì các đế võng vô tận chơn ngôn giáo pháp danh
hiệu chư Phật, Bồ Tát. Mỗi mỗi một chơn ngôn giáp
pháp, danh hiệu chư Phật, Bồ Tát có đế võng vô
tận thân trì tụng. Tổng tường một môn này, tận đời vị lai tế
không nghỉ ngơi. Mỗi mỗi niệm nối nhau không gián đoạn. Thân, ngữ, ý
nghiệp không nhàm mỏi. (Hoặc khi trì tụng kinh v.v… trước quán
tưởng pháp môn này rồi, nhiên hậu trì tụng rất nhiệm mầu. Năm pháp
môn đã thực hành rồi, còn các hạnh khác, y theo đây
mà tu tập.)
Nếu tu tập Tương tức quán,
có bốn câu:
1)Một tức là một: Nghĩa là quán một
sợi lông tức là một cái tai. Một cái tai, đồng thời là một sợi
lông.
2)Tất cả tức là một.
3)Một là tất cả: Hai câu này nên hiệp
lại mà quán. Nghĩa là khi quán tất cả người, tức là tất cả Phật, tất cả
Phật đồng thời, tức là tất cả người. Trong mỗi câu tất cả các pháp lệ chuẩn
theo đây mà quán.
Nếu tu tập Tương tập nhập
quán cũng có bốn câu:
1)Một nhiếp một đem nhập một: Nghĩa là
quán một người, nhiếp một Đức Phật, đem nhập vào một vị Bồ Tát. Như
cái gương phía Đông nhiếp vào cái gương phía Nam, đem nhập vào cái gương phía
Tây.
2)Một nhiếp tất cả, đem nhập một: Nghĩa là quán một cái hoa nhiếp tất cả
sông, đem nhập vào một hòn núi.
3)Tất cả nhiếp một, đem nhập tất cả:
Nghĩa là quán tất cả trần nhiếp một Đức Phật, đem nhập trong một sợi
lông.
4)Tất cả nhiếp tất cả, đem nhập vào
tất cả: Nghĩa là quán tất cả cây nhiếp tất cả thần, đem nhập vào trong tất cả
biển. Trong mỗi câu, tất cả các pháp lệ chuẩn nơi đây mà quán tưởng.
Hai phép quán: Tương tức, tương nhập này, tùy theo trong
mỗi câu mà quán tưởng, lại có tổng quán, biệt quán, nhiều pháp môn.
Sợ phiền, không trình bày hết, chỉ chuyên tâm tu luyện, tự nhiên hiểu
thấu.
Cho nên Ngài Bùi Công ở trong bài
tựa Pháp Giới Quán nói rằng: “Chỉ khiến cho người học không rõ cảnh
trong tự tâm. Tâm huệ đã sáng tỏ rồi, tự thấy
nghĩa vô tận. Đừng đem giáo nghĩa Viên Thông ra chia vụn
vặt từng đoạn. Nếu đồng thời tu tập đầy đủ tương ưng quán,
nghĩa là tùy quán một pháp, đồng thời đầy đủ pháp giới các
pháp vậy. Các huyền môn kia lệ nơi đây mà hiểu. Nếu ưa
muốn tu tập Viên tôn tam quán chỉ. Chính như thân một người
rõ ba đế: Nhơn thân giả tướng mà có, đó gọi là Tục đế. Nhơn thân
duyên sanh vô tánh, sắc thể của nói toàn không gọi là Chơn đế.
Nhơn thân giả tướng không có tự tánh riêng biệt, thể của nó
toàn là tịch chiếu chơn lý, gọi là Trung đạo đế.
Nhưng ba đế này thể dụng không ngại, không, hữu dung nhau.
Tức một mà ba, tức ba mà một. Pháp vốn như thị, y như ba đế này hành
giả quán sát thành Tam quán Tam chỉ. Nghĩa là tâm của hành
giả quán nhơn thân giả tướng, lìa được cái chấp đó gọi là Phương tiện tùy
duyên chỉ. Lại quán nhơn thân sắc thể toàn không, gọi là không
quán. Tức quán tâm này khi rõ được sắc Không, lìa được các chấp
sắc thể thật có, gọi là Thể chơn chỉ. Lại quán nhơn thân này toàn là Trung
đạo thật tánh gọi là Trung đạo quán. Tức là quán tâm này xa
lìa được cái chấp có tướng và xa lìa được cái
chấp thể không gọi là Viễn ly nhị biên phân biệt chỉ.
Quán tâm như vậy ở trong một
niệm thấy cả ba đế, nghĩa là lập tam quán. Xa lìa được
ba món chấp, nghĩa là lập tam chỉ. Tam quán tam chỉ, chỉ
là nhứt tâm. Tức một thường là sáu, tức là sáu thường là một. Đem nhứt
tâm này khế đồng sở quán tam đế, cảnh vô ngại của thể và
dụng, của không và hữu. Tâm cảnh thường dung, lại thường rõ ràng.
Đã quán một thân người mà thành tam quán tam chỉ; quán tất cả đều như
vậy. Hỏi rằng: Luận về Đại Hạnh tóm lại chỉ vô niệm; cớ sao
lấy đế võng tương tức quán v.v… Khiến cho người khởi lên vô
tận tưởng niệm, há không mệt mỏi thân tâm ư? Xin trả
lời: Nếu thấy đây là một ly niệm để ngoại cầu vô niệm, mà còn chưa được
cái chơn vô niệm. Chơn vô niệm là niệm vốn không không làm
thế nào lại được cái niệm, cùng vô niệm không chướng ngại nhau?
Nếu như được toàn thể Viên hạnh trong Vô tận hạnh? Lời hỏi
này là cái ý xuất ra trong Hoa Nghiêm Kinh Đại Sở. Nếu không tu
tập các quán đế võng tương tức, thì không thể chứng trọn
được vô ngại Phật quả. Nay có tiểu căn nghe pháp môn
này liền thêm phiền loạn, hoàn toàn không thèm để ý. Người xưa
nói rằng: con ếch ngồi đáy giếng không thể biết nơi biển lớn được. Núi Thái
Sơn không thể đựng trong đãy được.
5)Vô Chướng Ngại Pháp Giới
Quán: (Tức đương tức pháp giới sở y tổng pháp giới quán),
nghĩa là thường quán sát tất cả pháp nhiễm tịnh. Thể của nó toàn
là vô chướng ngại pháp giới tâm. Trí năng quán này
cũng tưởng toàn là pháp giới tâm. Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng:
“Biết tất cả pháp, là tâm tự tánh. Thành tựu huệ thân, không do
tha ngộ”. Lại Ngài Thanh Lương nói rằng: “Nếu biết xúc vật đều là
tâm, mới rõ được tâm tánh. Nay trong vô chướng ngại pháp giới này,
vốn đủ ba thế gian, bốn pháp giới. Tất cả nhiễm tịnh các
pháp, chưa có một pháp nào ra ngoài pháp này, mà pháp giới này đầy đủ
cái này, cái kia, xen nhau vô chướng ngại. Thời biết căn căn, trần trần,
toàn là vô chướng ngại pháp giới. Nếu ở trong bốn oai nghi,
thường quán căn căn, trần trần đều là trùng trùng vô tận pháp
giới, thì tu được cảnh giới phổ nhãn vậy. Quán này là căn
bản của tất cả phép quán tam muội. Nếu thường tu tập, tất
cả tam muội quán môn tự nhiên hiện tiền.” Như trên đã nói
nhiều quán môn, hoặc ưa thích tổng tu, hoặc tu một, hai phép,
tùy lòng đều được. Chỉ chuyên cần tu luyện, một đời chưa
được, ba đời chắc hoàn thành. Lại nữa, hành giả cần
phải nổi lên cái tư tưởng, tưởng được hiện tiền, thường được
hiện không ẩn mới là Hoa Nghiêm Viên giáo, Chơn Hạnh; Thanh
Lương Sở Chú: Sự sự vô ngại trong mười huyền môn gồm
có sáu câu. Năm câu trước là khởi tưởng tu luyện, luyện được hiện
tiền rồi, lại không tưởng luyện, tuy không tưởng luyện
thường hiện không ẩn, mới thành đệ lục hành cú. Pháp giới quán nói
rằng: “Suy tư thật sâu xa, khiến nó hiện ra trước mắt, viên
minh hiển hiện, xứng hạnh cảnh giới.” Ngài Khuê Sơn thiền sư giải
thích rằng: “Suy tư khiến nó hiện ra chơn giải vậy. Đã hiện
ra, liền dừng suy tưởng. Tuy không suy tưởng mà cũng
thường hiện ra, không giấu kín mới là thật hạnh.”
Ngài Nhất Hạnh thiền sư nói
rằng: “Trước cần khởi tưởng, tưởng được hiện tiền, nhiên hậu dùng Bát
nhã không mà tịnh trừ nó. Tức thành bất tư nghì đại dụng, liền đốn nhập
Phật quả. Nếu không khởi tâm quán đó, lầm lãnh hội ý Bát
nhã, dẫu cho có nhập không cũng mất đạo lý viên đốn, đối
với viên tôn hành giả tu luyện chí thiết thì tự nhiên lời
nói biến mất, dứt tuyệt suy nghĩ, liễu liễu phân minh mới
là chơn tu hạnh. Nếu được như vậy trong bốn oai nghi thường thấy
những cảnh giới không thể nghĩ bàn. Người muốn tu đạo nên lưu
tâm sự này, bổn lai như vậy, chỉ vì mê muội không thấy đó
thôi.
Người tu tâm hoặc có cảnh
mộng thiện ác, hoặc gặp các thứ ma chướng hiện ra các cảnh
giới khác: Trái, thuận, hay nghe các thứ tiếng thiện ác, hoặc các
loài trùng kiến bò chạy trên thân, hoặc thân tâm không an,
nhiều lo lắng. Hoặc khi nhập quán tưởng có các thứ tướng hiện,
không đồng với bổn quán tương ưng v.v… Điều cần phải quán
đó như chiêm bao, mộng huyễn, tất cả đều không có thật. Hoặc quán tất
cả là tự chân tâm của mình. Luận Khởi Tín dạy rằng: “Đương
niệm duy tâm, cảnh giới bèn diệt, không thể làm hại mình
được.”
Từ trước đến giờ đã nói xong
phần HIỂN GIÁO TÂM YẾU.
Gồm có các bộ như: Thần Biến Sớ Sao, Mạn Trà La Sớ Sao, đều cho Đà ra ni giáo là Mật Viên vậy. Hiển giáo viên tôn về phần trước, nói sự tu hành cốt yếu trước phải ngộ Tỳ Lô pháp giới. Sau y ngộ, tu Phổ Hiền Hạnh Hải, lìa được sanh tử, chứng được nhập thân vô ngại Phật quả. Như người bịnh được phương thuốc tốt, cần phải biết phân, lượng, phép tắc bào chế, hiệp thành mà uống mới có thể lành bệnh, thân an.
Nay Mật Viên Thần chú, tất cả chúng sanh cho đến nhơn vị Bồ Tát, tuy không hiểu được, chỉ tụng đó liền được Tỳ Lô Pháp Giới, Phổ Hiền Hạnh Hải. Được lìa sanh tử, thành tựu mười thân vô ngại Phật quả, như bịnh nhân gặp được món diệu dược. Tuy không biết phân lượng phép tắc hoà hợp; chỉ uống thuốc là tự nhiên trừ bịnh, thân an. Cho nên kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng: “Mật chú của chư Phật là phép bí mật; chỉ có Phật với Phật tự biết với nhau; các vị Thánh không thể thông đạt. Chỉ tụng trì là diệt được đại lỗi, mau lên Thánh vị.” Lại nói rằng: “Thần chú là Mật ấn của chư Phật; Phật, Phật truyền nhau, người khác không thể thông hiểu.” Hiền Thủ Bát nhã sớ nói rằng: “Chú là pháp bí mật của chư Phật, không phải chỗ hiểu của nhơn vị”. Chỉ tụng trì không cần phải gượng giải thích. Còn Viễn Công Niết Bàn Sớ nói rằng: “Chơn ngôn chưa chắc là chuyên ngữ của người Thiên Trúc. Phiên dịch lại không hiểu, vì vậy nên không phiên giải!”. Trong Thiên Thai Chỉ Quán nói rằng: “ Bậc Thượng Thánh mới có thể nói cả hai pháp Hiển Mật. Kẻ phàm nhơn chỉ tuyên truyền Hiển giáo, không thể tuyên truyền về mật giáo. Các Sư từ xưa đều nói: “Đà Ra Ni, nhơn vị Thánh Hiền, không thể hiểu giải, chỉ nên tin mà thọ trì, diệt được tội chướng, thành tựu phước đức.”
Hỏi: Vì sao, Mật chú của chư Phật không thể giải thích cho người khác hiểu?
Đáp: Thần chú là viên mãn giải là phiến diện. Giải làm cho chú mất; bởi vậy nên không giải thích cho người khác rõ được, mật nghĩa nằm trong đó, cần phải suy nghĩ. Trong Pháp Hoa Sao nói rằng: “Về bí pháp của chư Phật, không hiểu nghĩa nó được, cho nên nói là Mật ngôn”. Bát nhã kinh nói: “Tổng trì như thuốc thần, cũng như cam lồ của trời trị lành các bịnh sai lầm, uống thì thường an vui.
Lại trong Lý Thú kinh, đức Như Lai có nói năm tạng:
1)Kinh Tạng: Như sữa bò.
2)Luật Tạng: Như sữa đặc.
3)Luận Tạng: Như sữa tươi.
4)Bát Nhã Tạng: Như sữa chín.
5) Đà Ra Ni Tạng: Như đề hồ.
(Đề hồ là vị đã lọc, nó ngon nhất trong các món ăn bằng sữa; trị được các bịnh, khiến các hữu tình thân tâm an vui. Ở Tây Thiên Trúc thường dùng đề hồ để trị các bịnh.)
Đà Ra Ni trong các Kinh, Luật là tối thắng, đệ nhất, hay trừ các tội giúp cho các chúng sanh giải thoát sanh tử, mau chứng Niết Bàn, An-Lạc pháp thân. Lý Thú kinh sớ nói rằng: “Tánh Đức Lực Đại, mật chú công cường, giải hạnh tuy kém, giải thoát thì mau.” Các đại sư như: Hiền Thủ v.v… chỉ cho Hoa Nghiêm kinh là Viên, các giáo khác đều không phải. Nay lại cho Đà Ra Ni là Viên giáo, vậy không trái với Hiền Thủ cùng các đại sư khác sao?
-Đáp: Viên tông có hai:
1)Hiển viên.
2)Mật viên.
Hiền Thủ chỉ căn cứ vào Hiển giáo chánh phán Hoa Nghiêm là Viên. Nay có Thần Biến sớ sao, Mạn Trà La Sớ Sao, cho rằng giống như các thứ Hiển viên, Mật giáo cũng là Viên tông. Hiển Mật đã khác mà các sự không trái. Y theo Mật Viên tu luyện cũng chia làm hai:
1)Trì tụng nghi quỹ.
2)Nghiệm thành hành tướng.
Trước hết nói về Trì Tụng Nghi Quỹ: Chơn Ngôn hành giả, mỗi ngày muốn y pháp trì tụng, trước hết phải ngồi Kim Cang chính tọa: (Lấy chân bên hữu gác lên chân bên tả, hoặc tùy ý ngồi sao cũng được.) Tay kiết Đại Tam muội ấn (Lấy hai tay ngửa ra rồi tay hữu để lên tay bên tả, hai đầu ngón cái giáp lại nhau, để ngang dưới rún, ấn này hay diệt tất cả cuồng loạn, vọng niệm, tư duy tạp nhiễm.) Thân tam lắng tịnh, nhập định pháp giới Tam muội. Tưởng: tự thân trên đảnh đầu ta có một chữ Phạn LAM:
Chữ này biến ra ánh sáng quang minh, như ngọc Minh châu, như mặt trăng rằm tròn sáng. Tưởng chữ này xong, lại lấy tay trái kiết ấn: Kim Cang Quyền ấn: (Lấy ngón tay cái để trong lòng bàn tay bấm lại đốt vô danh chỉ giáp lòng bàn tay, rồi nắm chặt như cầm cú, ấn này hay trừ nội, ngoại chướng nhiễm, thành tựu tất cả công đức.) Tay mặt cầm chuỗi ký số, miệng tụng: Tịnh pháp giới chơn ngôn: 21 hoặc 108 biến. Chơn ngôn: Án Lam; hoặc chỉ đơn trì Lam hay là Lãm. Phạn tự : Án Lam :
Tịnh pháp giới Lam tự này, hoặc tưởng, hoặc tụng thường khiến tam nghiệp đều được thanh tịnh; tất cả tội chướng đều được tiêu trừ. Lại hay thành tựu tất cả việc thù thắng; ở chỗ nào cũng được thanh tịnh. Y phục bất tịnh khiến thành tịnh y. Thân không tắm gội vẫn được sạch sẽ; nếu dùng nước làm cho sạch, không gọi là Chơn tịnh. Nếu dụng tịnh pháp giới LAM tự này để tịnh, liền gọi là bình thanh tịnh triệt để. Như một hạt linh đơn điểm vào sắt thành vàng ròng. Chơn ngôn một chữ biến nhiễm thành tịnh. Kệ rằng:
Ra tự sắc tiển Bạch. Không điểm dĩ nghiêm chi. Chữ RA, sắc trắng tịnh, điểm vào chỗ không để trang nghiêm nó, Phạn tự RA:
điểm vào chỗ không trên, tức thành LAM tự.
Như Minh châu trên nhục kế, an
trí tại đỉnh đầu; Chơn ngôn đồng pháp giới; vô lượng chúng
tội trừ. Tất cả xúc uế, nên gia
trì chữ này. Nếu thật ngoại
duyên không đầy đủ, không nước để tắm rửa,
thiếu y mới tinh sạch, chỉ dùng LAM tự để làm cho sạch. Nếu người có ngoại
duyên đầy đủ, trước dùng nước xong mặc y
mới thanh tịnh, lại dùng LAM tự tịnh
nữa, tức là trong ngoài đều thanh tịnh.
(Như các chơn ngôn Nghi
quỹ nói.)
Rồi tiếp tục tụng chú: Hộ
thân chơn ngôn 21 hay 108 biến. Chơn ngôn, Phạn tự ÁN XỈ LÂM:
Nếu tụng chú này, hay diệt ngũ nghịch, thập ác,
tất cả tội nghiệp. Có công
năng trừ tất cả bịnh, tai chướng, ác
mộng, tà mị, quỷ thần và các việc bất tường. Thành tựu các việc thù thắng; khiến tất cả mọi sự mong cầu đều được viên
mãn. Chú này là tâm của chư Phật, nếu
người chuyên tâm tụng một biến
hay bảo hộ được chính mình.
Tụng hai biến hay bảo hộ được
đồng bạn. Tụng ba biến thường bảo hộ mọi
người trong nhà. Tụng bốn biến bảo
hộ mọi người trong một thành. Cho đến bảy
biến hay bảo hộ người
trong tứ thiên hạ.
Rộng như Văn Thù Căn Bản Nhứt
Tự Chú kinh nói.
Kế đến tụng 108 biến Lục Tự Đại Minh Chơn
ngôn: ÁN MA NI BÁT DI HỒNG, ÁN MA NI BÁT
MINH HỒNG hay MA NI BÁT NẠP
MINH HỒNG.
đức sáu pháp Ba la mật. Được vô tận biện tài trí huệ thanh tịnh. Hơi ra trong miệng chạm đến người nào, người đó nhờ sự tiếp xúc xa lìa các sân độc, sẽ được Bồ Tát vị. Giả như: Người trong bốn thiên hạ, đều đắc Thất địa Bồ Tát vị. Các Bồ Tát đó có bao nhiêu công đức, sánh với công đức tụng một biến chú Lục tự, cả hai đều bình đẳng không sai khác. Chú này là Vi diệu bổn tâm của Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát. Nếu người nào chép lại sau chữ Đại Minh này, sánh với sự viết, chép tám vạn bốn ngàn Pháp Tạng, cũng bằng công đức đó, không sai khác. Nếu lấy vàng báu tạo tượng Như Lai, số như vi trần, không bằng công đức việt một trong sáu chữ này. Nếu người nào đã đắc sáu chữ Đại Minh này, thì họ không còn bị nhiễm trước tham, sân, si. Nếu đeo Thần chú này nơi thân cũng hết nhiễm tham, sân, si. Người trì tụng đeo mang sáu chữ này, tất cả loài hữu tình mà chân, tay người đó chạm đến, mắt người đó ngó đến, đều mau đắc Bồ Tát vị, không còn thọ các khổ sanh tử nữa. Khi nói xong Lục Tự Đại Minh này, có Thất Thập Thất Cu Chi Phật đồng thời xuất hiện và đồng thanh nói “CHUẨN ĐỀ CHÚ”. Vậy, nên biết Lục Tự Đại Minh cùng Chuẩn Đề Chơn ngôn lần lượt nương vào nhau. (Rộng như Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương kinh nói.) Nhiên hậu kiết ấn Chuẩn Đề tại Tim.
Chuẩn Đề Chơn ngôn cùng Nhứt tự luân chú, một thời đồng tụng 108 biến xong rồi xả ấn trên đỉnh đầu. (Hoặc không muốn tụng Đại Luân Chú, chỉ trì Chuẩn Đề Chơn ngôn cũng được.)
Lấy ngón áp út và ngón tay út bên mặt cùng bên
trái xỏ lộn với nhau vào trong
lòng bàn tay; dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ mà vịn
vào lóng đầu của hai ngón tay giữa; còn hai ngón tay cái thì đè lên lóng giữa
ngón tay áp út bên mặt, để ngang ngực, chí tâm tụng chú Chuẩn
Đề và Đại Luân Nhứt Tự, nếu muốn triệu
thỉnh, đưa qua đưa lại hai đầu ngón tay trỏ.
Khi kiết ấn, tụng chú, muốn đếm số cho nhớ, ở nơi tay chia lóng chỉ trên mà
đếm. Hoặc trên tay của tượng Chuẩn Đề Bồ Tát, hoặc quán tâm ký số,
hoặc mười niệm ký số. Hoặc kiết ấn tụng
được một nghìn tám chục biến (1.080) rất tốt, hay hơn 108 biến. Hoặc chỉ
tay bên tả kiết ấn kim cang quyền, tay bên hữu cầm chuỗi trì số cũng được, nếu sợ lộn, chỉ tán trì cũng
có kết quả.
Thất Cu Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Đà Ra Ni Chơn ngôn: Nam Mô Tát
Đa Nẫm, Tam Miệu Tam Bồ Đề Cu
Chi Nẫm, Đát Điệt Tha. Án Chiết Lệ
Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm.
Phật dạy: Thần chú này có công năng diệt trừ thập ác ngũ nghịch tất cả tội chướng. Thành tựu tất cả bách công đức. Trì chú này dù ở tại gia hay xuất gia, không lựa kẻ tịnh người uế; chỉ chí tâm trì tụng hay khiến chúng sanh đời sống ngắn ngủi, sẽ tăng thọ vô lượng. Ca Ma La tật là bệnh nan y, còn trị lành, huống chi các bịnh khác; nếu không tiêu diệt là không có lý. Nếu có ai tụng mãn bốn mươi chín ngày, Chuẩn Đề Bồ Tát khiến hai vị Thánh thường theo người đó, kẻ nào có tâm niệm thiện ác, đều mỗi mỗi báo hiệu hai bên tai người đó đầy đủ. Nếu có người vô phước trúng tướng cầu quan không toại ý, nghèo cùng khốn khổ, bức bách; thường tụng chú này sẽ khiến hiện đời được phước báu như Luân Vương cầu xin quan vị quyết được xứng toại. (Trong Thiền Tôn, truyện Đăng Lục có trí dẫn người xưa) : “Cu chi chỉ niệm Tam Hành Chú mà được danh tiếng hơn người”. Nếu cầu trí tuệ được đại trí tuệ; cầu nam nữ được nam nữ. Phàm có sở cầu, đều được xứng lòng và toại ý, giống như ngọc Như ý; tất cả tùy tâm mình muốn. Hơn nữa, tụng chug này thường khiến cho các quốc vương, đại thần và tứ chúng đều sanh lòng kính yêu, thảy đều hoan hỷ. Người tụng chú này, xuống nước không chết chìm, nạn lửa không thể đốt. Độc dược, oan gia, quân trận, cường tặc và ác long thú, các loài quỷ mị đều không thể hại. Nếu muốn thỉnh: Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương, Diêm La, Thiên Tử v.v… chỉ tụng chú này tùy thỉnh quyết đến, không dám trước sau chậm trễ. Hoặc có sai khiến gì được như ý muốn. Thần chú này có thế lực lớn đối với Nam Thiệm Bộ Châu. Dời núi Tu Di; khô nước Đại Hải; chú vào cây khô sẽ phát sanh hoa quả, huống chi là người năng y pháp trì tụng, có thể chuyển nhục thân, được đại Thần túc, sanh về cõi trời Đâu Suất. Nếu cầu trường sanh và các tiên dược, chỉ y pháp tụng chú, sẽ thấy được đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát trao cho thần tiên diệu dược, lấy đó mà ăn, sẽ thành tiên đạo. Được sống lâu ngang bằng nhật nguyệt, chứng Bồ Tát vị. Nếu y pháp tụng mãn một trăm vạn biến, liền được đi mười phương Tịnh Độ, hầu hạ các vị Phật, nghe khắp diệu pháp, chứng được quả Bồ đề.
Nếu muốn thành tựu đàn pháp: ở đây không đồng các Chơn ngôn khác, cần phải rộng tu cúng dường chỗ kiến lập đạo tràng phải cuốc đất hương nê : (bột hương trộn đất nhão để thoa khắp nơi đạo tràng). Ở đây chỉ dùng một cái kính tròn rất mới, chưa dùng (làm Kính đàn) để trước tượng Phật tùy theo tháng ngày tối Rằm; mặt hướng về phương Đông, ngồi trước Kính đàn tùy sức trang nghiêm; các món cúng dường đầy đủ. Xông An tức hương, nước tịnh thủy, nhiên hậu kiết ấn để tại ngang ngực. Chú trong Kính đàn 108 biến Chuẩn Đề, xong lấy bao vải bỏ Kính đàn vào, đi đâu cũng đem theo để tùy thân. Mỗi khi muốn tụng niệm, chỉ lấy Kính đàn ra để trước mặt, kiết ấn tụng chú. Nếu không thể tụng niệm hằng ngày, chỉ cần những ngày thập trai, đối Kính trì tụng cũng được.
Ngoài mười ngày trai, không trì tụng trước Kính đàn cũng được. (Trong Mật tạng, Kính đàn này là yếu diệu, Tổng nhiếp tất cả các Đàn pháp. Nếu không có Kính đàn, chỉ tưởng một Kính đàn trước mặt mà trì tụng. Kinh Tịnh chư ác thú, cùng nhiều kinh khác phần nhiều nói: Tưởng thành Đàn pháp, trì tụng là hơn hết. Hoặc không tưởng được Đàn pháp chỉ nên chuyên tâm trì chú. Các ngày thập trai: 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30.) Chú Chuẩn Đề này các Phật và Bồ Tát đều đồng nói. Độc Bộ Biệt Hành, tổng nhiếp 25 bộ Chơn ngôn Đàn Pháp, Chuẩn Đề Phạn bổn Văn thuyết có mười vạn bài kệ. Ngài Long Thọ Bồ Tát nói bài kệ tán thán rằng:
Chuẩn đề công đức tụ
Tịch tịnh tâm thường tụng
Nhứt thiết chư đại nạn
Vô năng xâm thị nhân
Thiên thượng cập nhân gian
Thọ phước như Phật đẳng
Ngộ thử như ý châu
Định hoạch vô đẳng đẳng
Chuẩn Đề Công Đức tụ;
Vắng lặng tâm thường tụng.
Tất cả các đại nạn,
Không thể xâm phạm người.
Trên trời và cõi người,
Thọ phước ngang bằng Phật.
Gặp châu Như Ý này,
Đắc định, chứng Bồ đề.
(Rộng như Chuẩn Đề kinh và Trì Minh Tạng Long Thọ Nghi, nói: Chuẩn Đề cũng có nơi gọi: Chuẩn Nê hay Tôn Na… Chỉ là Phạn âm bất đồng mà thôi.)
Chú Đại Luân Nhứt Tự: tức là Bộ Lâm:
cũng gọi là
Nhứt Tự Tâm Chú trong
đời mạt pháp. Đối với thời mạt pháp,
khi chánh pháp sắp diệt, chú
này có đại thế lực. Hay
giúp thế gian làm đại lợi
ích, hay hộ trì Pháp Tạng của Như
Lai, hay hàng phục tất cả tám bộ chúng, hay bẽ gãy tất cả các ác
chú trong thế gian. Đây là đảnh của
các Đức Phật, là tâm của Văn
Thù Bồ Tát, hay ban thí vô úy cho tất cả chúng sanh và ban sự vui sướng cho họ. Phàm có tu trì sẽ tùy ý đắc quả, giống như ngọc
Như Ý. Có công năng làm mãn nguyện tất cả. Nếu tụng chú này, nhìn thẳng bốn phương, các ác
quỷ thần các xa năm trăm trạm đều chạy tản
lạc. Các ác tinh diệu và các Thiên ma không
dám lại gần. Nếu trì tụng các chơn
ngộn khác sợ không thành tựu. Nên dùng chú này cộng chung với Chơn
ngôn khác đồng thời trì tụng, nhất định sẽ kết quả. Nếu không thành tựu và hiệu
nghiệm thì các vị thần hộ chú kia cái đầu
sẽ bị phá vỡ ra làm bảy phần. Cho nên chú này thường trợ lực cho các Chơn ngôn mau có kết quả. Hoặc trì riêng chú này cũng
được. (Rộng như Văn Thù Nghi
kinh; Mạt Phát Trung Nhứt Tự Tâm chú
kinh nói.)
Từ trước đến giờ lần lượt trì tụng đến Chuẩn Đề chú; nếu không kiết được ấn chú Chuẩn Đề,
thì lấy tay trái kiết ấn Kim
Cang quyền, tay mặt cầm chuỗi mà trì tụng. Hoặc
không theo sau, trước tụng tịnh
pháp giới Chơn ngôn lần lượt thọ
trì, chỉ trì Chuẩn Đề Thần
chú, hoặc căn độn không thể thọ trì đầy đủ chú ấy; chỉ từ chữ Án trở xuống mà trì,
nên chữ Án là lời quy kính. Từ chữ
Án v.v… là chánh Thần chú vậy.
Mỗi khi trì tụng rồi, liền dùng tay mặt kiết ấn Kim Cang,
miệng tụng Hồng Hồng Chơn
ngôn cho liên tiếp mà ấn vào năm chỗ:
1-Ấn trên trán.
2-Ấn vai phía trước.
3-Ấn vai bên mặt.
4-Ấn tại nơi ngực.
5-Ấn ở yết hầu.
Ấn xong xả ấn lên trên đỉnh đầu.
Hay trừ các ma chướng, thành tựu tất
cả thắng sự. Hoặc trước khi trì
tụng, kiết ấn trước năm chỗ rồi
trì tụng. Lại nữa, tùy theo chỗ
trụ xứ, muốn bài trừ Thần Quỷ,
kiết Kim Cang giới. Chỉ tụng Chuẩn
Đề Chơn ngôn, gia trì chú
trong hương thủy (nước hương
thơm) 21 biến rồi đem rải vào tám phương trên dưới liền thành tịch trừ kiết
giới. Lại khi chánh trì tụng, căn cứ
theo Cu Chi Đà Ra Ni kinh, Kim
Cang Đảnh kinh, Ngũ Tự Đà Ra Ni kinh v.v… Trong các bổn kinh đó có nói,
theo căn cơ ưa muốn, cũng có
nhiều thứ.
1)Du Dà Trì: Chỉ tưởng có chữ hiện ra trong tâm nguyệt luân. Nghĩa là tưởng tự tâm mình như một mặt trăng tròn vắng lặng, thanh tịnh,
trong ngoài phân minh. Lấy Phạn thư Án tự, an trong tâm
nguyệt luân; lấy Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn
Đề Ta Bà Ha
tự; theo trước xoay về phía bên
hữu, lần lượt hiện khắp theo
một vòng tròn (đọc cao giọng xong rồi trở lại từ đầu).
2)Xuất nhập tức trì: Nghĩa là trong hơi thở ra vào, tưởng có Chơn ngôn Phạn tự. Hơi thở ra
theo chữ ra, hơi hít vào theo
chữ vào. Chữ chữ, sáng rõ như xâu chuỗi ngọc minh châu, không được gián
đoạn. (Hoặc khi thở hơi ra, tưởng tượng trong
tâm như mặt trăng tròn sáng:
Chín chữ Phạn, xoay vần đều có ánh sáng năm màu. Từ trong miệng mình lưu nhập
vào trong miệng đức Chuẩn Đề Bồ Tát, xoay
quanh bên hữu, an bố trong tâm
nguyệt luân của Chuẩn Đề Bồ Tát. Nếu khi hít vào tưởng chữ trong tâm nguyện luân của Ngài Chuẩn Đề Bồ Tát. Từng chữ nối kết tròn liền nhau, chữ cũng xoay vần đều có ánh sáng năm
sắc, từ miệng của Chuẩn Đề Bồ Tát tuôn
ra, lưu nhập vào trong miệng mình, xoay vần bên mặt, an bố trong tâm
nguyệt luân. Xong rồi trở ra từ đầu, rất là
nhiệm mầu.)
3)Kim Cang Trì:
Môi, răng không động, lưỡi không đến cái nướu, chỉ động nho nhỏ trong miệng.
4)Vi Thinh Trì: Chỉ khiến cho tai mình tự nghe:
không chậm, không mau, từng chữ phân minh mà xưng niệm.
5)Cao Thinh Trì: Khiến kẻ khác nghe
được diệt tội, lại có hai cách trì tụng:
1- Vô số trì tụng: Nghĩa là không trì chuỗi định số, thường trì luôn
không gián đoạn.
2- Hữu số trì tụng: Nghĩa là lần chuỗi trì tụng
mỗi ngày phải hạn định bao nhiêu, không được thiếu sót.
Nếu lần chuỗi trì tụng, chỗ thu hoạch công
đức, như các kinh rộng khen ngợi. Như kinh Số
Châu Công Đức nói: Nếu có người tay cầm chuỗi, tuy không niệm Phật và Đà Ra Ni, người ấy cũng được phước vô
lượng. Và trong kinh Kim Cang Niệm Châu có bài
kệ rằng: “Nếu để trên đỉnh đầu tịnh
tội vô gián, đeo trên cổ diệt được
bốn trọng nghiệp, trì nắm tay sẽ trừ
các tội giúp cho hành giả mau
thanh tịnh”. Lại Nhứt Tự Đảnh Luân Nghi có nói: “Nếu dùng LAM TỰ
Chơn
ngôn gia trì số châu bảy biến,
khi hành trì một biến
thành nghìn biến, nếu lần chuỗi đến hột mẫu
châu, phải trở lại không
được vượt qua mẫu châu). Mỗi
ngày y pháp trì tụng, cần
phải phân thời hạn định. Nếu như một thời, thì buổi sớm mai. Hai
thời thì thêm buổi hoàng hôn. Nếu
trì ba thời thì thêm buổi chánh ngọ. (Nếu công việc bận rộn, không cần
phải phân thời, lúc nào trì tụng cũng
được.)
Nếu hạng thượng căn trì tụng, cần phải được Tam mật tương ưng.
1) Thân mật: Kiết ấn.
2) Ngữ mật: Tụng chú.
3) Ý mật: Hoặc tưởng Chơn ngôn Phạn
tự, hoặc duyên nghe theo tiếng trì tụng.
Hoặc tưởng tượng đức Chuẩn Đề Bồ Tát, hoặc tưởng trong tay của Bồ Tát cầm các vật như xử, bình, hoa, quả v.v… Cho
nên Thần Biến Kinh Sớ nói: Nếu
dùng Tam mật làm môn tu
hành; không cần tu trải qua nhiều
kiếp số, đủ tu các hạnh, chỉ nơi đời này đầy đủ các Ba la mật rồi. Lại nữa, khi đang trì tụng chưa đủ 108
biến, không được nói chuyện với ai. Còn nếu muốn nói chuyện thì phải tưởng trên
lưỡi mình chữ phạm LAM:
dù cho nói chuyện cũng không bị gián đoạn.
Hỏi: Chỉ trì tụng nhứt đạo Chơn ngôn sẽ thành
tựu hay phải rộng trì nhiều bổn Chơn
ngôn mới được thành tựu công đức?
Đáp: Có hai môn:
1)Tùy căn cơ ưa
muốn: Căn cơ có nhiều sự ưa
muốn bất đồng. Hoặc ưa trì 3, 5, 10 đạo cho đến 100 đạo v.v… Trong đó tùy căn cơ ưa muốn không đồng, đều được trì tụng.
2)Muốn mau chóng thành tựu: Muốn cầu tất cả công đức mau thành tựu, nên chuyên trì tụng nhứt đạo Chơn ngôn cho thành, thời tất cả Chơn ngôn công đức đều thành
tựu.
Cho nên kinh Văn Thù Nghi Quỹ có
nói: Nếu muốn tất cả công đức thành
tựu, không được dùng Chơn ngôn mà khởi tư tưởng như trên, tuy có số đạo Chơn ngôn, nhưng đó là thứ lớp trì tụng với Chuẩn
Đề Chơn ngôn.
Hỏi: Đã chuyên tụng một Thần chú mau được thành tựu, vì sao lại hay bày vẽ Chuẩn Đề ngôn cho người trì tụng?
Đáp: 1- Vì Chuẩn Đề Chơn ngôn bao
gồm tất cả các Chơn ngôn, và bao hàm tất cả các Thần chú. Các chú không bao hàm được Chuẩn Đề như biển lớn hay nhiếp trăm sông chứ trăm sông
không thể thu nhiếp biển lớn (Chuẩn Đề tổng
hàm các chú sau đây sẽ rõ.)
2- Vì Chuẩn Đề Đàn pháp người
dễ làm thành tựu. Chỉ lấy một cái
kính mới chưa từng dùng, ấy là Đàn pháp . Không đồng như các chú, phải kiến lập đàn pháp , cần
phải lựa chọn nơi tịnh xứ hương nê đồ địa, rộng tạo các Phật tượng, các món cúng dường đầy đủ mới có thể thành tựu. (Người có tài vật, rộng tạo các Phật
tượng, các món cúng dường đầy đủ, nơi trước tượng Phật, an trí Kính
đàn, đối trước trì tụng lại càng nhiệm mầu.)
Vì Chuẩn Đề không cần lựa tính cách nhiễm
tịnh để trì tụng, chẳng luận tại
gia, xuất gia, đã lỡ uống rượu, ăn thịt,
có vợ con v.v… đều trì tụng
được. Không giống các Thần chú khác cần
yếu phải trì giới mới hay tụng tập. (Nay vì những kẻ thế
tục đeo mang vợ con, uống rượu, ăn thịt, ấy là thường nghiệp của họ. Tuy gặp kẻ Tăng nhơn dạy bảo, nhưng tập tánh khó mà cải đổi. Nếu không dùng Đại bất tư nghì chú pháp này cứu
thoát, thì những kẻ như vậy biết ngày nào ra
khỏi sanh tử. Còn những ai, trai
giới thanh tịnh y pháp trì
tụng, lại là thù thắng nhiệm
mầu hơn hết. Trong kinh Chuẩn Đề nói:
Huống là trai giới đầy
đủ, y pháp đầy đủ để trì tụng,
không chuyển, không thân vãng đến Tứ thiền, sẽ được đại Thần túc ấy.)
(Chữ A này là Ty Lô Phật thân, cũng là pháp giới, cũng là Bồ đề tâm, nếu người tưởng niệm thì pháp sinh được vô lượng công đức.) Hoặc tưởng trong tâm Nguyệt luân một chữ Hồng:
(chữ Hồng tổng nhiếp Kim Cang bộ, tất cả Chơn ngôn. Là chủ thân Kim Cang bộ, cũng là ba giải thoát môn. Nếu thường tưởng niệm, hay trừ tất cả tội chướng, thành tựu các công đức.) Hoặc trên lưỡi tưởng một chữ LAM:
hay chữ HỒNG:
tưởng xong rồi sẽ tụng trì. Hoặc tưởng trên cổ mình phát xuất hoa sen lớn, trên hoa sen xuất hiện chữ A:
lại tưởng chữ A biến thành mặt trăng tròn; tưởng nơi mặt trăng đó biến thành chữ HỒNG:
chữ Hồng này biến ra năm chùy Kim Cang, lại tưởng cái chày này dời lên trên cái lưỡi, gọi là lưỡi Kim Cang. Nhiên hậu trì tụng (Kế đó, hai tay cũng tưởng chữ A:
A lại biến thành Nguyệt luân, Nguyệt luân biến thành HỒNG:
tự, chữ Hồng biến ra sắc trắng năm chày Kim Cang mới gọi là tay Kim Cang, sau đó kiết tất cả ấn.) Hoặc tưởng ra chín chữ Thánh Phạn Chuẩn Đề mỗi một chữ có các thứ ánh sáng An trong tự thân phần; nghĩa là tưởng chữ ÁN: an trên đỉnh đầu;
chữ Chiếc: an nơi hai con mắt,
chữ LỆ: an tại cổ,
chữ CHỦ: an nơi tâm,
Chữ Lệ: an nơi hai vai,
chữ CHUẨN: an nơi rún,
chữ ĐỀ: an nơi hai bắp vế,
chữ Ta Bà: an nơi hai cổ chân
và chữ HA: an tại hai bàn chân.
Tưởng An bố khắp nơi rồi,
nhiên hậu trì tụng.(Kinh Trì Minh Tạng Thành
Tựu Nghi Quỹ nói: Nếu kẻ nào muốn thành tựu trong pháp Chuẩn Đề Bồ Tát, trước hết quán Chuẩn Đề Bồ Tát căn bổn vi diệu tự
luân, trên thân mình mỗi một chữ ở vào một chỗ
rõ rệt, thân đời trước ngươi đó có tạo tất cả tội nghiệp, thì cũng được trừ diệt. Phàm có sở cầu, quyết định thành
tựu, pháp An bố cửu tự, trong Kinh
tạng có nhiều chỗ nói vậy.)
Quán tưởng chữ Phạn đã có công
đức rộng như trong các kinh Đà Ra Ni có
nói: “Trên đây về quán môn Phạn
tự, trong bốn oai nghi thường tư
duy đến, rất là nhiệm mầu”. Phàm trong các
kinh, tưởng chữ Chơn ngôn đều
là chữ Phạn chứ không phải chữ của xứ ta. Cho nên Nhứt Tự Đảnh Luân
Vương Nghi Quỹ nói rằng: “Chỗ nói quán các chữ, chỉ là chữ
Phạn, không phải chữ ở các địa phương mà có sức đại thần dụng.” Hoặc có người
không thể tưởng được chữ Phạn, chỉ nên chuyên tâm trì tụng cũng đủ tất cả tam muội. Cho nên Đại Bi Tâm Kinh nói rằng: “Đà Ra Ni là Thiền
định tạng; trăm nghìn tam muội thường hiện tiền.”
Nếu người khẩn thiết trì tụng, hoặc gặp các
thứ ma chướng, hoặc bỗng nhiên sợ
hãi, hoặc lưỡi khó trì tụng, hoặc thân không an,
hoặc ngủ nhiều, giận nhiều, hoặc thấy các tướng lạ, hoặc sanh nghi các Thần chú không muốn trì tụng v.v… Nếu đối trị các điều đó, nên quán tưởng Phạn tự RA:
hoặc quán chữ LAM:
hay quán chữ A: …
Chỉ tùy theo đấy quán tưởng một chữ, cảnh giới kia tự nhiên tiêu diệt. Nếu tâm hay sanh nhiều phân biệt, nên quán Phạn tự SÁI: tức Thánh vô phân biệt.
Nếu có trước tâm nhiều, nên quán tưởng HÀM tự: tức nhơn duyên pháp vốn không có vậy.
(Trên đây ước nơi một mặt
mà nói, nếu thật nói ra: Chỉ tùy một chữ mà tất cả đều có công dụng đó, nghĩa là một chữ thật đủ tất cả chữ,
là công dụng của tất cả chư
Phật, Bồ Tát vậy.)
Hỏi: vì sao Phạn tự đều có bất tư nghì thần dụng
như vậy?
Đáp: Nghĩa là mỗi một chữ tức thể là thân
tâm của chư Phật, Bồ Tát vậy; tức là thể là ly tướng pháp giới vậy.
Lại tức thể là giáo lý, hạnh và quả
ấy vậy, sở dĩ thế nên có bất
khả tư nghì thần dụng. (Phạn tự: ở Tây
Phương vốn có sẵn trong pháp nhĩ. Khi thế giới mới thành, Phạm Vương truyền
nói: Không đồng như chữ ở phương này, do Thương Hiệt sáng chế).
Hỏi: Nếu vậy, Phạn tự ở Phương Tây, đều có bất
khả tư nghì thần dụng, cớ gì riêng nói chữ
trong Chơn ngôn?
Đáp: Nghĩa là chữ trong Chơn ngôn, là pháp nhĩ của
chư Phật bất tư nghì lực gia trì vậy. Pháp
tánh như vậy đó, riêng có thần dụng.
Như ngôn ngữ ở đây chỉ là một.
Duy chỉ những câu như “cấp cấp như luật lịnh v.v…Chú hỏa không thiêu được, chú
thủy không làm chìm, cho nên làm ngữ chú riêng có công dụng, chẳng phải tất cả ngôn ngữ khác đều có công dụng như vậy. Chữ ở Tây Phương cũng thế …,
chữ tuy là một mà làm chữ trong Chơn ngôn, riêng có thần dụng, chẳng phải tất cả chữ đều có thần dụng như vậy.
Hỏi: Trên nói đối đàn, kiết ấn, tụng chú v.v…
đâu không phải hữu tướng ư?
Đáp: Viên Tông vô chướng ngại pháp giới,
trên thể, vốn đủ vô tận pháp
môn. Thiền tông vô tướng pháp
môn chỉ là một trong vô tận môn vậy. Nay Mật tông, Đàn pháp, thủ
ấn, Chơn ngôn, tức thể lại là vô chướng ngại pháp
giới vậy. (Như Hoa Nghiêm kinh
Sớ Sao, trong Thập huyền môn, nương sự hiển pháp môn, nói Kim sắc thế giới, tức là bổn tánh là Bát nhã vô phân biệt trí v.v… Nay có người nói rằng: Trì chú, kiết ấn,
đối đàn là trệ ngại nơi tướng,
đây chỉ là trong thiền tôn mà luận. Tức là ly tướng ngoại cầu nơi vô tướng. Tổ sư vì ngoại
đạo mà kiến giải, chứ không phải ý Phật giáo. Lại trong kinh Lăng Nghiêm sớ nói rằng: Trì tụng Thần chú hay trừ được các ác, hay nhóm tập các thiện.
Kẻ ngu muội không biết ý chỉ
đây; thấy người trì chú thường
nổi lên lòng hủy báng, cho đó không phải là kẻ tu hành. Chưa có một Đức Phật nào, không do nơi Thần chú mà
được thành đạo để độ chúng
sanh vậy, xin mời xét kỹ lại để cải cái lỗi
này.
Hỏi: Trên kia dẫn chứng các đại sư, các Ngài đều nói rằng: “Chú là pháp bí mật của chư Phật, không phải chỗ giải của nhơn vị,
cớ gì trên kia lại giải chữ A, là Tỳ Lô Phật thân, chữ Hồng là Tam giải thoát môn v.v…
Đáp: Cứ theo Hiền Thủ Bát nhã trong kinh sớ và Thần Biến sớ, các Mật tạng Đà Ra Ni Kinh Ý thì có hai môn:
1)Bát Nhã Thuyết
Môn: Chú là mật pháp của chư
Phật. Chư Phật truyền nhau, kẻ khác chẳng thông hiểu, chỉ nên trì tụng không cần cưỡng thích.
2)Cưỡng Thuyết Môn: Như trong Chơn
ngôn, tùy cử một chữ, hoặc tác nhơn, hoặc tác
pháp, bao trùm cả không gian và thời gian, tự tại giải
thoát. Tóm lại mà nói: Vô tận pháp môn ở
trong một chữ tổng giải nói hết, mới là chữ nghĩa của Đà Ra Ni. Đem lời nói này, giả sử mười phương các Đức
Phật trải qua hằng sa kiếp, chung nói nghĩa một chữ trong Chơn ngôn cũng không thể hết được, huống nữa người khác,
nói đó còn khó, huống chi tham thọ. Sở dĩ đem một phần trong một chữ, hoặc tác nhơn, hoặc tác
pháp mà giải nó như trước nó chữ A, là Tỳ
Lô Phật thân, Hồng tự là Tam
giải thoát môn v.v… Tức là cưỡng nói cái
nghĩa của một phần thôi. Còn các chỗ khác có giải thích Chơn ngôn,
tự nghĩa, cú nghĩa, đều là cưỡng
thuyết giải một phần nhỏ nghĩa
vậy. (Nếu ở trong một chữ Chơn ngôn,
hoặc chia ra ba nghĩa, mười nghĩa hay một trăm nghĩa v.v… giải
thích gọi là nghĩa một mặt vậy.) Trên nói:
Duy Phật mới biết, chứ không thông giải cho kẻ khác. Đó là căn cứ
vào Mật giáo bổn tôn bất khả thuyết môn
mà nói: (Bất khả thuyết môn này là
nói đến quả ly ngôn của Hiển
giáo Viên tôn, Cưỡng thuyết môn đây tức là
nói đến nhân quả của Hiển
giáo Viên tôn)
Hỏi rằng: hoặc có chúng sanh muốn trừ các thứ tai, chướng, hoặc muốn tăng
trưởng phước huệ, hoặc muốn cầu Thánh quả … là chỉ y Nghi Quỹ như trước trì
tụng hay là có phương pháp nào
khác?
Đáp rằng: Chỉ y Nghi Quỹ như
trước trì tụng. Phàm có sở cầu nhất
định thành tựu. Hoặc có muốn tùy việc sở cầu, mỗi pháp làm riêng khác. Nay lược bày pháp thức sau đây: Theo trong kinh Thiên
Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Tu
Hành Nghi Quỹ, Thất Cu Chi Đại Minh Đà
Ra Ni kinh, Thần Biến Sớ và
các Chơn ngôn Nghi Quỹ … nói: Có năm thức Đàn pháp gọi:
1) Tức Tai Pháp.
2) Tăng Ích Pháp.
3) Kính Ái Pháp.
4) Hàng Phục Pháp.
5) Xuất Thế Gian Pháp.
1)Tức Tai Pháp: (Vì để trừ ác nghiệp, trọng
tội, phiền não chướng … Các món tai nạn, quan sự, khẩu thiệt, quỷ mị sở trước, ác tinh lăng
bức …) Kẻ hành giả hướng về
phương Bắc, tréo gót chân ngồi thẳng; tượng Chuẩn Đề xoay về hướng Nam, đối trước tượng Ngài mà an
trí Kính đàn. (Cái kính tròn) Lại tưởng một
Đàn tròn sắc trắng, trong cái đàn ấy tưởng khắp chữ PHẠ:
hoặc chữ VÃM: tôn tượng cúng dường đầy đủ,
và tự thân hành giả điều tưởng ở trong đàn tròn; hoặc
trước tượng chỉ vẽ một đàn tròn cũng
được. Quán tưởng đức Chuẩn
Đề sắc trắng, hiến cúng hoa quả, ẩm thực và
tự thân y phục đều là sắc
trắng, đồ hương dùng bạch
đàn, thiêu hương dùng trầm thủy, thắp đèn dầu Tô du; lấy từ tâm tương
ưng. Lúc đầu hôm ngày mồng một mỗi tháng bắt đầu khởi việc, đến ngày mồng tám
là mãn, mỗi ngày ba thời tắm gội, ba thời thay áo, khi đến ngày mãn hoặc đoạn
thực (không ăn) hoặc ăn tam
bạch thực: nghĩa là sữa, gạo gãy hay cháo. Người
không đủ sức tôn tượng cúng dường đầy
đủ y phục chỉ vận
tâm tưởng cũng được, sau này cứ
theo đây mà biết) Nếu khi tụng
niệm, lần lượt trì tụng như trước, đến Chuẩn Đề chú tụng 108 biến, rồi sau chỉ từ chữ ÁN mà
tụng. Diệu Chơn ngôn: Án Chiếc Lệ
Chủ Lệ Chuẩn Đề, gia hô tên …
và trừ tai nạn TA-BÀ HA. Nếu tự cầu cho mình, trên chữ TA
BÀ HA xưng danh mình và sự việc cầu xin. Nếu vì người khác, cũng xưng rõ tên, họ, sự việc
v.v…
2)Tăng Ích Pháp: Vì cầu thêm sự vinh quang, tăng
trưởng thọ mạng, cầu phước đức thông minh, quyến
thuộc thế lực, tiền tài phongn thạnh, lúa nếp thành thục, cầu phục tang bảo châu, thuốc tiên,
năm thần thông v.v… Hành
giả hướng về Tây phương; trước tượng Chuẩn Đề an trí Kính
đàn (lại tưởng một hình Đàn vuông, sắc vàng trong Đàn ấy có khắp chữ A:
hoặc tưởng chữ ÁM: Tôn tượng cúng dường đầy đủ.
Tự thân của hành
giả đều tưởng ở trong cái đàn vuông, hoặc ở
trước tượng vẽ một hình đàn vuông cũng được). Quán tưởng đức Chuẩn Đề sắc vàng, chỗ hiến cúng hoa quả ẩm thực và tự
thân y phục … đều là sắc
vàng. Đồ hương dụng, bạch
đàn gia chút uất kim, thiêu bạch
đàn hương, thắp đèn ma du (dầu mè) đem
tâm vui mừng được tương
ưng. Theo tháng ngày mồng 9, khi mặt
trời mới mọc, khởi đầu hành trì cho đến ngày
rằm là mãn. Mỗi ngày như trước, ba thời tắm gội thay áo. Đến ngày mãn cứ như
trước đoạn thực và tam
bạch thực; niệm tụng như trước.
Diệu Chơn ngôn: Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, gia hộ tên… sở
cầu như ý, Ta Bà Ha. (xưng tên và sự việc như bài trước đã nói)
3)Kính Ái Pháp: (Vì cầu tất cả Thánh Hiền gia
hộ, Thiên long Bát bộ hoan hỷ,
cầu thuyết pháp biện tài, ngôn âm hoà nhã, người nghe hoan hỷ và cầu tất cả mọi người ái kính, bạn hữu tri thức thân cận, oan gia hoà thuận …) Hành giả xây mặt về hướng Tây, ngồi cách thiền tọa, tượng diện hướng Đông, trước tượng Chuẩn
Đề an trí Kính đàn. (Lại tưởng một bán nguyệt hình Đàn sắc màu đỏ, trong bán
nguyệt hình Đàn ấy, tưởng khắp chữ Hạ:
hoặc chữ Hàm:
tôn tượng cúng dường đầy
đủ, và tự thân hành giả đều
tưởng ở trong bán nguyệt hình đàn ấy. Hoặc trước tượng chỉ vẽ một hình đàn bán nguyệt cũng
được.) Quán tưởng đức Chuẩn
Đề màu sắc đỏ, thân mặc áo sa lụa, chỗ hiến
cúng hoa quả, ẩm thực và tự thân y phục, thảy đều màu đỏ. Đồ hương dụng uất kim, thiêu hương lấy đinh hương, Tô hạp hương hòa mật để thiêu
đốt. Thắp đèn dầu trái cây đem thân tâm hỷ nộ tương ưng. Từ ngày 16 cuối đêm (hậu dạ) là khởi đầu; đến ngày 23 là mãn, mỗi ngày tắm
gội đoạn thực hiện tụng, thực
hành như pháp trước.
Diệu Chơn ngôn: Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề linh nhứt thiết nhơn ái kính…tên…Ta Bà
Ha. (Xưng tên họ tùy theo việc sở cầu, như trước đã bày.)
4)Hàng phục pháp: Để hàng phục tất
cả ác độc, quỷ thần và ác long thú tổn hoại tất cả hữu
tình và điều phục tất cả người ác, không trung với đất nước, sanh
tâm phản đạo, diệt Tam-Bảo, hủy Chơn ngôn, hoặc gây chướng ngại. Đối
với tất cả người ác như vậy, người trì chú vận đại từ bi tâm,
làm được phép này.
Nếu vì ích kỷ mà cầu, hoặc có tâm oán cừu mà cầu, mà làm phép này, theo các
kinh đã nói, quyết định phản
chiêu tai họa, phản đắc suốt
đời si ai, học giả nên biết! (nghĩa là mình oán ghét người nào đó,
cầu cho họ bệnh chết hay tai họa,
thì không thành mà trái lại mình
bị mang họa. Chư Phật Bồ Tát không cho
phép, nếu cưỡng làm suốt đời bị ngu si.)
Hành giả hướng mặt về phương Nam, dùng phép
ngồi tôn cư Tọa (Ngồi chồm hổm, bàn chân bên tả áp qua hai bàn chân bên hữu.
Mặt tượng hướng về phương Bắc. Nơi trước tượng Chuẩn Đề, an trí Kính
đàn. (lại tưởng một cái Đàn tam giác sắc
xanh ở trong tam giác Đàn, tưởng
khắp chữ Ra:
hay chữ Lam:
tôn tượng cúng
dường đầy đủ và tự thân của hành
giả điều tưởng ở trong cái Đàn tam
giác cũng được.) Chuẩn Để sắc xanh, hay màu
đên mặc áo đen xanh tự thân y phục cũng
đều sắc xanh. Hiến cúng hoa sắc xanh, hoa thối, hoa không thơm và Mạn
đà la hoa v.v… ẩm thực, dùng thạch lựu làm nước nhựa nhuộm thành sắc đen hay sắc xanh, đồ
hương dùng cây bá. Ứ già: dùng phân trâu
(phân trâu trắng ở núi tuyết bên Ấn Độ nói
ăn toàn cỏ thơm, nên phân nó mịn thơm chứ không phải phân trâu xứ ta). Lấy hoa
sắc đen và giới tử Bá mộc
làm đồ hương v.v… Mỗi thứ lấy
một ít để nơi Ứ già thủy; đốt an tức hương. Thắp đèn dầu hạt cải; lấy phẫn nộ tâm tương ưng. Từ ngày
24 vào lúc giờ ngọ hoặc nửa đêm
khởi đầu hành pháp cho
đến ngày cuối tháng thì mãn; mỗi ngày tắm
gội, đoạn thực, niệm
tụng pháp, thực hành như trước.
Diệu Chơn ngôn: Hồng, Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, Hồng Phấn-Tra: (Phấn Tra viết chữ Phạn)
(Nếu các người ác thân tâm không an, hoặc sắp chết, phải khuyên gấp người ấy, phát thiện tâm. Nếu người ấy biết hối lỗi, tự trách vĩnh đoạn ác tâm, thì nên vì họ làm phép Tức Tai, niệm tụng, người kia bèn khỏi tai nạn. Trên đây là bốn pháp thành tựu. Nếu muốn nhờ được thành công trong bốn pháp này; cần được dự tu trì Chuẩn Đề Chơn ngôn trước là 50 vạn, 70 vạn, hay 100 vạn biến. Đã thực hành rồi, mới làm bốn pháp, thành tựu được, tùy sự ưa muốn, dù làm một pháp cũng sẽ thành. Thấy trong thời nay hoặc Thích, hoặc Nho vì lợi vì danh mãn năm suốt ngày xu hướng tham lam, dụng hết thân tâm cũng chưa vừa bụng. Khi vô thường đến lại sanh vào xứ thấp hèn. Sao bằng, vâng Thánh ngôn chư Phật tụng bí mật Thần chú, trên trong các pháp Tăng Ích lần lượt thực hành, việc sở cầu quyết định toại tâm; tất cả nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt; vô thường có đến thì được sanh thắng xứ. Hiện tại, vị lai, đều được lợi lạc, há chẳng là điều tốt sao. Có được lợi lớn ấy, cho nên Phật mới dạy.)
5)Xuất thế gian đàn pháp: Vì muốn mau đủ hai món tư lương: Phước đức và trí huệ. Đốn viên mười món Ba la mật, siêu việt ba vô số kiếp khắc kỳ trong đời này Thánh quả hiện tiền. Người hành giả ở tại núi non, hang cốc sâu thẳm thù thắng, già lam thanh tịnh. Đem hết lòng Đại Bi, thường ưa lợi lạc vô biên hữu tình, đồng với Chuẩn Đề Vương Bồ Tát. Nương nhờ Đại Bi, nguyện lực, hộ trợ các Phật, Bồ Tát. Hạn định bốn tháng bốn ngày trong một thời kỳ, dứt tuyệt không tiếp khách, dứt bặt lời nói. Tam Mật tương ưng tâm không gián đoạn; kẻ hành giả mặt hướng về phương Đông. (Các phương khác cũng được, nhưng hướng Đông là tốt hơn hết; hoặc ngồi toàn già, bán già, hay tùy ý ngồi đều được.) Mặt tượng hướng về Tây, nơi trước tượng Chuẩn Đề an trí Kính đàn.
(Trên đảnh hành giả tưởng chữ Lam:
Chuẩn Đề Đà Ra Ni kinh, Kim Cang Đảnh kinh, Tô Tất Địa … Cộng lại hơn mười bổn kinh đều nói Chơn ngôn, người hành giả dụng công trì tụng. Hoặc mộng thấy chư Phật, Bồ Tát, Thánh tăng, Thiên nữ. Hoặc mộng thấy tự thân bay lên hư không một cách tự tại; hoặc vượt qua biển lớn, hoặc trôi nổi trên sông Giang Hà, bay lên lầu các, hoặc lên cây cao thọ, hoặc trèo lên núi trắng, hoặc cỡi sư tử, ngựa, voi trắng, hoặc thấy hoa quả tốt đẹp. Hoặc mộng thấy mặc áo vàng, áo trắng Sa Môn. Hoặc nuốt bạch vật, nhả vật đen. Hoặc ngậm nuốt, mặt trời, mặt trăng … tức là cái tướng trạng tiêu diệt tội vô thỉ.
Hoặc chính đương lúc trì tụng thấy các thứ ánh sáng; hoặc thấy khắp chỗ trong hư không có các hoa kỳ lạ, đặc biệt. Hoặc thấy các Phật, Bồ Tát, Thánh tăng, Thiên Tiên … Hoặc thấy chư Phật Tịnh độ, hoặc thấy tự mình dạo qua các Phật quốc và cúng dường. Hoặc tạm thời gian trải qua nhiều kiếp. Hoặc thấy đèn sáng cao 1 thước, 2 thước cho đến 1 trượng. Hoặc trong lư không có lửa mà tự nhiên có khói. Hoặc thấy Phật tượng, phan cái tự động; hoặc nghe các món mỹ thinh của chư Phật, Bồ Tát.
Hoặc tự biết thân mình nguy nga, vòi vọi cao lớn. Hay răng rụng lại mọc, tóc trắng lại đen; hoặc thân thể trắng nhuận, không sanh rận rệp, hoặc tham sân si tự nhiên tiêu diệt. Hoặc tổng trì bất vong, một chữ năng diễn nhiều nghĩa. Hoặc trí tuệ đốn sanh, tự nhiên thông hiểu tất cả kinh luật luận. Hoặc tất cả tam muội pháp môn tự nhiên hiện tiền. Hoặc phước đức đốn cao, tứ chúng thảy đều quy ngưỡng …(Kinh văn trên đây đã nói: Nay có kẻ Tăng, Nho sĩ sơ lược tham học thiền lý, vừa thấy các tướng ấy cho là yêu dị. Đây chẳng những là hủy báng tối thượng thừa giáo, mà cũng là đắc tội tà kiến, xả tướng, thủ tánh; lại không biết tướng kia, bản lai là tánh vậy.)
Nếu gặp các việc như trên, chỉ là phước huệ tăng trưởng, tướng trạng gần thành tựu; chớ sanh lòng nghi hoặc, chớ khởi niệm thủ xả.
Nên quán những cảnh giới đã gặp đó, đều là A tự:
Sự thành tựu có 9 phẩm:
1)Hạ phẩm có ba:
a)Nếu hạ phẩm thành tựu, năng nhiếp phục tất cả tứ chúng, phàm có sở cầu, cử ý tùng tâm, tất cả thiên long thường đến thăm hỏi; lại hay hàng phục tất cả trùng thú và quỷ mị …
b)Trung phẩm thành tựu: Có công năng sai sử tất cả thiên long, bát bộ hay khai mở tất cả những bảo tàng giấu kín, hoặc cần vào tu la cung, long cung liền được vào đó, đi, ở tùy tâm.
c)Thượng phẩm thành tựu: Liền được tiên đạo, thừa nương hư không bay đi qua lại. Trên trời dưới đất đều được tự tại. Thế gian xuất thế gian chẳng việc gì mà không đạt đến.
2)Trung phẩm có ba:
a)Hạ phẩm thành tựu: Liền được làm vua trong các tiên chú, trụ thọ vô số tuổi, phước đức trí huệ ba cõi không thể so kịp.
b)Trung phẩm thành tựu: Liền được thần thông qua lại các thế giới, làm Chuyển luân vương, trụ thọ một kiếp.
c)Thượng phẩm thành tựu: Hiện chứng từ Sơ địa Bồ Tát trở lên.
3)Thượng phẩm có ba: Nếu hạ phẩm thành tựu: Được đến đệ Ngũ địa Bồ Tát trở lên.
b)Trung phẩm thành tựu: Được đến đệ Bát địa Bồ Tát trở lên.
c)Thượng phẩm thành tựu: Tam mật biến thành Tam thân. Chỉ trong đời này được chứng quả Vô thượng Bồ đề. Đây là 9 phẩm thành tựu của người trì chú. Nếu cầu thẳng đến thành Phật chẳng cân cầu thành tựu ba hạ phẩm. Còn căn cứ theo Thần Biến Sớ có năm phẩm thành tựu:
1) Hiện đến tín vị.
2) Đến sơ Địa.
3) Đến tứ Địa.
4) Đến bát Địa.
5) Đến thành Phật.
Đó là thuộc về kinh này. Nay thông y theo các kinh cho nên nói chín phẩm, nghĩa là Chuẩn Đề Chơn ngôn, bao gồm tất cả các bộ Thần chú.
Hỏi: Vì sao biết được Chuẩn Đề gồm các bộ Thần chú?
Đáp: Nghĩa là trong một tạng kinh, Thần chú không ngoài 25 bộ.
1) Phật bộ: Là các chú của Phật.
2) Liên Hoa bộ: Là các chú của Bồ Tát.
3) Kim Cang bộ: là các chú của Kim Cang thần.
4) Bảo bộ: Là các chủ của chư Thiên.
5) Yết ma bộ: Là chú của các vị quỷ thần.
Năm bộ này mỗi bộ gồm có 5 bộ nhỏ thành 25 bộ. Nay Chuẩn Đề tổng nhiếp 25 bộ cho nên Chuẩn Đề kinh nói: Chỉ có 1 bộ mà nhiếp 25 bộ. Lại nói rằng: Nếu muốn triệu thỉnh 25 bộ thiên ma … chuyên tụng chú này, tùy thỉnh quyết đến. Lại nói rằng: Ngũ bộ Kim Cang Tứ Thiên Vương, đồng kết Tổng trì tam muội giới. Kinh đại Giáo vương có nói: Thất Cu Chi Như Lai, ba thân khen nói: Chuẩn Đề Bồ Tát Chơn ngôn năng độ tất cả hiền Thánh. Nếu người trì tụng, tất cả sở cầu thảy được thành tựu; không bao lâu chứng được Chuẩn Đề đại quả, vì thế nên biết Chuẩn Đề Chơn ngôn đứng hàng đầu trong Mật tạng, là mẹ của Chơn ngôn, là vua của các Thần chú.
Chuẩn Đề Chơn ngôn tổng nhiếp 25 bộ Chơn ngôn, hoặc dùng hình tượng ấn pháp Phạn tự … mỗi mỗi không đồng. Nay Chuẩn Đề Kính đàn tổng nhiếp tất cả các đàn pháp này vậy. Cho nên Chuẩn Đề kinh nói rằng tổng nhiếp 25 bộ. Đại Mạn Trà La: Phạn ngữ Mạn Trà La nghĩa là Đàn. Cho nên biết Kính đàn rất là tối tôn tối thượng hay diệt tất cả ma chướng, năng sanh tất cả công đức; mắt thấy, thân đeo mang đều được lợi lạc. Cho nên người xưa nói rằng: Đàn ấy là tập vậy, là chỗ vô biên Thánh Hiền tập hội. Như ngọc Phương Châu hứng ánh mặt trăng, liền có nước phát ra, đem kính (hội tụ) hứng ánh mặt trời, liền phát sanh ra lửa. Đá từ thạch dẫn hút kim loại. Hổ phách lượm hạt cải. Cái công dụng thật khó so lường; huống chi là Đàn pháp không thể nghĩ bàn của chư Phật. Nay có kẻ ít nghe thấy, mê mờ không hiểu mật giáo, thấy dùng Kính đàn lại sanh hủy báng. Song ba đời các đức Như Lai, chưa hề có vị Phật nào không theo Đàn phát mà thành Phật đạo, để hóa độ chúng sanh vậy. Mong những ai nghe thấy rộng rãi, hãy mau sửa đổi sự sai lầm đó.
Nếu nương theo Hiển Mật hai tông tu tập, đó là bực thượng căn, nghĩa là tâm tạo pháp giới, đế võng và các thứ quán, miệng tụng Chuẩn đề lục tự, các Thần chú, đây có 2 hạng người;
1 - Người đã tu lâu, Hiển Mật đều tu.
2 - Người mới tu tập, trước tu Hiển giáo Phổ Hiền quán, rồi mới Tam mật gia trì; hoặc dùng Tam mật rồi, vậy sau mới tu quán hai thứ đều được.
Tôi dù tài mọn, tâm còn Hiển Mật song tu cho nên Nhơn Vương Bát Nhã Đà Ra Ni Thích và Nhơn Vương Nghi Quỹ đều cho rằng: “Nếu không tu Tam mật môn, không y Phổ Hiền hạnh nguyện mà được thành Phật là điều không có lý!” Lại kinh Hoa Nghiêm Tự Luân Nghi Quỹ nói rằng: “Muốn đốn nhập Nhứt thừa, phải tu tập quán Tỳ Lô Giá Na Pháp thân; trước nên phát khởi hạnh nguyện Phổ Hiền. Lại lấy Tam Mật gia trì thân tâm, thời hay ngộ nhập được biển đại trí huệ của đưc Văn Thù Sư Lợi; là biết bậc thượng căn cần yếu Hiển Mật song tu. Bậc trung căn tùy lòng ưa muốn; hoặc Hiển hoặc Mật, chia tu một môn đều được. Nhưng Hiển viên Hoa Nghiêm các Phật đều khen ngợi, Bồ Tát đều tuân hành. Tây Thiên, Đông Hạ, Thượng Trí, Thượng Hiền đều quy tâm; là đạo giáo rộng hành, nhiều người thấy nghe, chẳng nhờ sự tán dương. Mật viên Thần chú là đnh của chư Phật, là tâm của Bồ Tát. Công năng rộng lớn, lợi lạc vô biên; vì thời lưu ít biết, nay lược thuật cũng phân làm hai:
A - Thuật Mật chú công đức sâu rộng.
B - Hỏi đáp Mật chú Pháp khí hơn kém.
Lược y Thánh giáo chia ra có mười môn. Rộng lớn thì vô lượng (vì nhiều người không biết Mật giáo là thù thắng thâm sâu cho nên đem mười môn để khen ngợi. Dùng cảnh tỉnh những ai chưa nghe; nếu thật một mặt bỏ Hiển, khen Mật cũng chẳng phải bậc Thông nhơn; kinh Hoa Nghiêm nói: Thọ một Pháp mà thôi bị ma ám ảnh; khuyên trì các kẻ hậu học. Hoặc Hiển, hoặc Mật, hoặc Tánh, hoặc Tướng. Thực hành thì giữ lấy một môn; tin thì cần phải viên thông vô ngại. Chớ đồng với kẻ mù rờ voi, đệ tử rửa chân! Tôi từng có bài kệ rằng:
Đại thán thân tuyên ngũ giáo văn.
Thiên môn vạn hộ nhập thiên nhơn.
Biển quán thọ nhứt phi như giả.
Tận thị Phật gia bất liễu nhơn.
Nghĩa:
Đại Thánh nhân tuyên năm thời giáo.
Muôn đường nghìn nẻo vào chơn đạo.
Khắp xem thọ một pháp mà thôi
Đều là người không rõ nhà Phật.
Lại nữa Chuẩn Đề đã tổng nhiếp 25 bộ; tức biết mười môn sau đây đều nói công đức của Chuẩn Đề Đà Ra Ni vậy.)
1) Hộ trì Quốc vương An-Lạc nhơn dân môn.
2) Năng diệt tội chướng, viễn ly quỷ thần môn.
3) Trừ thân tâm bịnh, tăng trưởng phước huệ môn.
4) Phàm sở cầu sự giai bất tư nghì môn.
5) Lợi lạc hữu tình cứu thoát u linh môn.
6) Là chư Phật Mẫu giáo hạnh bổn nguyện môn.
7) Tứ chúng dị tu Kim Cang thủ hộ môn.
8) Linh phàm đồng Phật Như Lai, quy mạng môn.
9) Cụ tự tha lực hiện thành Bồ đề môn.
10) Chư Phật Như Lai thượng nãi cầu học môn.
1-Đầu tiên là hộ trì Quốc vương An-Lạc nhân dân: Nghĩa là Bí Mật Tạng Đà Ra Ni kinh đều nói rằng: “Đà Ra Ni năng hộ trì quốc vương, an lành nhân dân”. Cho nên Bảo Tạng Đà Ra Ni kinh nói: “Trong tất cả quốc độ, nơi nào có Đà Ra Ni lưu hành khiến nhơn vương thường được ủng hộ, thế lực tự tại; cũng hay ủng hộ sự chánh hóa của quốc vương. Có những kẻ như Vương tử, Phi hậu, Tể tướng, Phụ thần, các quan tướng thảy đều được ủng hộ; khiến được an vui, trong nước có nội ngoại oán địch mưu kế gian trá, tật dịch, cơn cẩn, nắng hạn, lụt lội, ác thú, độc long, tất cả việc bất tường như vậy thảy đều đoạn dứt. Lại khiến tiền tài, lúa thóc, phong nhiêu, kho lẫm đầy dẫy, hoa trái vinh thạnh, nhân dân an vui”. Bảo Tạng Đà Ra Ni kinh nói: Đà Ra Ni lưu hành chỗ nào, hay ủng hộ các Quốc vương, Vương tử, Phi hậu, Công chúa, trăm quan, Phụ tướng, khiến cho các tai nạn tiêu diệt, sở nguyện viên thành, thiên thần gia hộ; không khiến ma quỷ đến nhiễu não và trong nước lại được mười thứ quả báo tốt:
1) Trong nước không có tha bịnh, oán tặc xâm nhiễu.
2) Trong nước không có tinh tú biến quái mà khởi lên tai nạn.
3) Trong nước không có ác quỷ thần hành các tật dịch, thiện thần hộ vệ, vạn dân an vui.
4) Trong nước không có gió lửa, sương muối, mưa đá các nạn.
5) Trong nước không có kẻ oan gia rình tìm được.
6) Trong nước người không bị các ma bức bách.
7) Trong nước người không có các hoạnh tử.
8) Trong nước các món thóc lúa đầy đủ, trái ngon quả ngọt v.v…
9) Trong nước thiện long, mưa gió thuận thời, không có nắng hạn, bão lụt.
10) Trong nước người không bị các thú dữ như: cọp, beo, sói các ác thú làm tổn hại.
Lại Thất Phật kinh chú nói: Đà Ra Ni, nếu như nhựt nguyệt đi không đều, có thể khiến đi ngay lại. Luá gạo mất mùa, năng khiến được mùa. Đại thần mưu phản, ác tâm tự diệt. Tật dịch binh đao, thảy đều tiêu tán. Lại rằng: Các Nhơn vương muốn được hiện đời an vui, lìa các hoạn nạn. Các vị Quốc vương kia nên cần tâm đọc tụng Đà Ra Ni. Cũng phải khuyên hậu phi, thể nữ và các vương tử … cần tâm tu tập. Lại Thủ Hộ Quốc Giới Chư Đà Ra Ni kinh nói: Vì sao thiên nói hộ nơi quốc vương? Nghĩa là quốc chủ an vui thì vạn dân mới an vui, vì vậy nên nói hộ nơi quốc chủ. Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát kinh nói rằng: Đà Ra Ni năng trừ tất cả hữu tình, tai hoạ, tật dịch, đói kém, giặc cướp binh đao, nắng hạn không đều, tinh tú thất độ. Cũng hay làm tăng trưởng phước đức, cõi nước giàu mạnh, nhân dân an vui, quốc vương, nam nữ đều được trường thọ. Trong kinh Tô Bà Hô Đồng tử nói: Ly ngoài Chơn ngôn không có pháp riêng nào năng ban vui cho chúng sanh được. Rộng như các Đà Ra Ni kinh nói: Xưa có Liêu quốc, Thiên Hậu Hoàng Đế, chánh pháp truyền khắp, Phật huệ lưu thông, kiên trì Mật chú đều được thần công, liền được lúa mùa, bắp nếp đầy kho; ngôi báu vững bền, nhân dân an vui lâu dài, chính nhờ sự linh nghiệm của Đà Ra Ni.
2-Năng diệt tội chướng, viễn ly quỷ thần.
Kinh Bồ đề Trường Trang Nghiêm Đà Ra Ni, kinh Tối Thắng Tổng Trì, kinh Lầu các Đà Ra Ni … Hơn hai mươi bản kinh đều nói viết, chép Đà Ra Ni để trong tượng Phật, tháp, trong bảo xử, hoặc viết trên tràng phan, trên điện đường, viết trên giấy lụa, vải, tre, hoặc trên vỏ cây hoa, tường vách, bảng mộc. Có chúng sanh được xem thấy hoặc thân tay rờ đến hoặc trong bóng ngã qua, hoặc những bụi trần trên chữ Chơn ngôn gió thổi nơi thân. Hoặc viết chép đeo mang tại đảnh, trên thân, trong áo hoặc viết trên tràng phan, nếu gió thổi phan động, phan kia chỉ chỗ chúng sanh. Hoặc chép lên chuông, trống, linh, mõ, loa, bạt … các tiếng trên vật ấy phát ra, nghe được tiếng ấy Trên đây đã nói: Các chúng sanh dù bị tội ngũ vô gián là nghiệp mà chư Phật cho rằng không sám hối được, cũng thảy đểu diệt tận. Đời sau sanh về các nước Phật, huống chi thân tụng trì đó ư? Cho nên người xưa nói rằng: Tội ngũ nghịch vô gián rất nặng, niệm chú liền tiêu vong. Nghiệp thập ác là cự khiên, vừa nghe liền bay mất. Trong Tùy Cầu Tụng có nói rằng:
"Dầu phạm Ba La thập ác tội,
Sát A La Hán và tôn thân.
Ngũ nghịch căn bổn thất vô giá,
Ưng niệm tùy tiếng liền tiêu diệt.
Chơn ngôn Thánh lực công vô lượng
Nên con xưng tán chẳng nghĩ bàn."
Lại Mạt Pháp Trung Nhứt Tự chú, hết thảy Đà Ra Ni kinh nói: “Người trì chú nơi bốn phương hướng, trong vòng 500 dặm, các ác tinh diệu, quỷ thần, thiên ma… hết thảy chạy tản lạc mà đi. Vị nào có phát thiện tâm thủ hộ thì không đi. Nếu kẻ nào cố ý làm chướng ngại mà ở lại phá, liền bị chư hộ pháp đập bể đầu ra trăm miếng, thân tâm dập nát. Nhờ thế nên hành giả không bị các ma chướng và được đến Bồ đề.
Hỏi: Có người nói sự trì chú hay gây ra ma chướng, nay sao lại nói năng lìa được ma chướng?
Đáp: Đây là lời bàn nói của xóm làng, chứ trong Thánh giáo chẳng có văn này.
Nay Mật bộ các kinh đều nói: Đà Ra Ni năng lìa ma chướng, nơi đây chớ nên luận bàn. Như Hiển giáo trong kinh Pháp Hoa sợ có kẻ giảng tụng tu tập kinh Pháp Hoa có khởi các ma chướng. Cho nên nói phẩm Đà Ra Ni khiến trừ ác ma. Kinh kia nói rằng:
“Nếu chẳng thuận chú ta,
Não loạn người thuyết pháp
Đầu bị phá bảy phần,
Như nhánh cây A lê.”
Lại Thích Ma Ha Diễn Luận: “Dạy người tọa thiền cần phải tụng chú để trừ ma.
Lại trong Chỉ Quán nói: “Nếu các ma chướng làm não loạn sự tọa thiền, hành giả nên tụng Đại Thừa Phương Đẳng và các chú trị ma nói trong kinh giáo. Nếu khi xuất thiền, cũng nên tụng chú.”
Trong kinh Kim Quang Minh: Hàng Thập Địa Bồ Tát còn lấy Thần chú để hộ trì, huống gì phàm phu ư? Cho nên kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Nếu không trì chú mà ngồi đạo tràng, khiến thân tâm kia xa lìa các ma sự lẽ đó không bao giờ đúng.
Lại nói: “Đời mạt thế chúng sanh, muốn tu tam muội sợ đồng tà ma, nên phải khuyến khích trì Thần chú của Ta (Phật). Nếu chưa năng tụng chép nơi thiền đường hay đeo trên thân mình, thì tất cả các ma chướng không dám động đến”. Các văn như vậy, Tạng giáo rất nhiều, hiện thấy người đời vị quỷ thần não hại. Kẻ trì chú còn trừ cho họ được, huống chi tự thân mình lẽ nào ma quỷ dám làm hại ư?
3)Trừ bịnh thân, tâm, tăng trưởng phước huệ:
Kinh Thánh Lục Tự Đà Ra Ni, kinh Phổ Hiền Đà Ra Ni, Văn Thù Nhứt Tự Chú ...hơn mười lăm bổn kinh, đều nói môn hạnh Đà Ra Ni, năng trừ được các món thân tâm bịnh khổ. Nói thân bịnh ấy nghĩa là tất cả các thứ bịnh: nhiệt bịnh, lãnh bịnh, phong bịnh, ngược bịnh, nhãn bịnh, nhĩ bịnh, tỷ bịnh, thiệt bịnh, khẩu bịnh, xỉ bịnh, thần bịnh, hầu bịnh, diện bịnh, đầu bịnh, kỉnh bịnh, hung bịnh, hiếp bịnh, phúc bịnh, thủ bịnh, bối bịnh, yêu bịnh, tất bịnh, cước bịnh, tị bịnh, lỵ bịnh, đàm bịnh, khí bịnh, lâm bịnh, đinh bịnh, thủng bịnh, ban bịnh, tiểu bịnh, dượng bịnh, sang bịnh, cuồng bịnh, điên giản bịnh, quỷ mị bịnh… chỉ nêu ra các bịnh trọng yếu. Hoặc bốn đại làm các thứ bịnh; hoặc ngũ tạng làm các thứ bịnh; hoặc quỷ thần làm ra các bịnh; hoặc những bịnh do túc nghiệp gây ra. Những bịnh như vậy, lấy Thần chú bất tư nghì lực có thể trừ lành. Cho nên kinh Trì Cú Thần chú, kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni đều nói rằng: Đà Ra Ni năng khiến cây khô trở lại sanh hoa trái huống chi là các bịnh hữu tình mà không trừ được sao!
Hỏi: Chơn ngôn hành giả chấp nhận việc gia trì quỷ thần để trị lành bịnh kẻ khác phải không?
Đáp: Kinh Diệu Tý Đồng Tử, kinh Tô Tất Địa … đều nói rằng: Nếu cầu thượng phẩm đại thành tựu, không được dùng Chơn ngôn gia trì quỷ thần cấm các trùng rắn để lành bịnh người khác. Làm việc đó thì hay ngăn ngại việc lớn, kẻ học nên y lời Phật, coi chừng dè dặt. Nếu thật lòng đại bi sâu rộng, ôm lòng Bồ Tát thì không ngăn cản việc đó. Cho nên kinh Quyến Sách nói: Trừ quỷ thần bịnh (bịnh tà) phải tu ba nghiệp thanh tịnh, đủ từ bi tâm; chư vị Bồ Tát mới hay làm việc đó.
Lại tất cả tham, sân, si bịnh tự tiêu diệt; cho nên kinh Bạch Tán Cái Đà Ra Ni nói: “Nếu có túc tập tham tâm không được trừ diệt, thì phải một lòng tụng Thần chú của Ta (Phật). Như cô Ma Đăng Già đã cùng ông A Nan nhiều kiếp ân ái, đem chú lực của Ta, làm cho ái tâm vĩnh đoạn, trở thành A la hán.”Còn như cô dâm nữ kia chẳng có tâm tu hành, khi Thần chú thấm vào cũng mau chứng bậc vô học, huống gì bản tâm cầu đạo Bồ đề đấy ư! Lại kinh Đại Bi nói: “Chí tâm xưng niệm Đà Ra Ni, lửa dâm dục diệt, tà tâm loại trừ”. Lại Như Ý Luân và tất cả các kinh Đà Ra Ni nói: “Chơn ngôn hành nhơn hiện năng tăng trưởng tất cả phước huệ. Phàm lời đã nói ra, người đều tin thọ, chỗ dụng y vật, tài bảo, tất cả cử ý tùng tâm. Năng khiếu trong vòng 500 do tuần, người, trời, quỷ thần đều đến quy ngưỡng. Lại tự nhiên thông hiểu tất cả: Kinh, Luật, Luận và các sách vở của thế gian. Hoặc nhớ tất cả không quên điều gì, mỗi ngày nhớ đến hàng nghìn bài tụng”. Cho nên kinh Đại Phật Đảnh nói rằng: “Nếu đọc hoặc tụng Đà Ra Ni ấy, dù các chúng sanh này, tự thân của mình không làm phước nghiệp. Mười phương Như Lai đã có công đức, tất phải ban cho người này.
Lại nói: Nếu trì Thần chú, không sanh nghi hối, mà kẻ thiện nam đó, do các bậc cha mẹ sanh ra mà tâm không được thông, thì mười phương chư Phật đều nói dối. Lại nói rằng: “Chưa tinh tấn, khiến được tinh tấn. Vô trí huệ, sẽ được trí huệ … Như chất thuốc dược nhỉ ở thế gian còn hay khiến người trừ bỏ ngủ nghỉ tăng trưởng tinh thần, huống nữa Thần chú lại không sinh trí huệ! Lại kinh Bất Không Quyến Sách Thần chú Tâm nói rằng: Nếu có tứ chúng thọ trì trai giới. Chuyên tâm trì tụng Thần chú bảy biến, chẳng xen tạp ngữ khác, phải biết người này hiện đời chắc chắn giữ được hai mươi món lợi thù thắng. Hai mươi món lợi đó là:
1. Thân không bị bịnh tật, được an ổn khoái lạc.
2. Do nghiệp lực đời trước, tuy có sanh bịnh nhưng trị mau lành.
3. Thân thể mềm mại, da thịt sạch sẽ trắng đẹp, mặt mày sáng sủa.
4. Được mọi người thương kính.
5. Mật độ các căn. (tai, mắt…)
6. Được nhiều tiền của quý báu, tùy ý thọ dụng.
7. Đã có tài bải, vương, giặc, nước, lửa không thể xâm tổn.
8. Sự nghiệp làm ra đều thành tựu tốt.
9. Đã có các món trồng tỉa, không sợ ác long, sương muối, bão lụt thiêu hủy.
10. Nếu có lúa thóc tai họa xâm phạm, nên tụng Thần chú gia trì nơi tro, hoặc nước trải qua 7 biến rồi đem rưới vào ruộng khắp 8 phương đã kiết giới, trên dưới, bấy giờ các tai hoạnh liền được diệt trừ.
11. Không bị những sự bạo ác của quỷ thần, la sát đến hớp hoạt tinh khí.
12. Tất cả hữu tình nghe thấy hoan hỷ, an lạc thường tôn trọng, không nhàm chán.
13. Không hề sợ sệt tất cả oán cừu.
14. Dù có oán cừu cũng mau tiêu diệt.
15. Người và các kẻ phi nhơn không thể xâm hại.
16. Yếm mị, trù rủa, thuốc độc, yếm chú chẳng dính vào thân.
17. Phiền não , triền cấu không thể hiện hành.
18. Đao độc, nước lửa không thể làm thương hại.
19. Chư Thiên, thiện thần thường theo hộ vệ.
20. Đời đời không xa rời từ bi hỷ xả.
Và trong kinh Thập Nhứt Diện Quán Thế Âm Thần chú có nói: Nếu có các tịnh tín, thiện nam, tín nữ thường trì tụng Thần chú; hiện thân sẽ thu được mười món thắng lợi; mười món đó là:
1. Thân thường vô bịnh.
2. Thường được mười phương chư Phật nhiếp thọ.
3. Tài bảo, y thực, thọ dụng vô tận.
4. Năng hàng phục kẻ oán địch mà không lo sợ.
5. Khiến các bậc tôn quý cung kính, tin lời.
6. Cổ độ, quỷ mị, không thể trúng thương.
7. Tất cả dao, gậy không thể làm tổn hại.
1. Nước không thể nhận chìm.
2. Lửa không đốt được.
3. Lâm chung không bị hoạnh tử.
4-Phàm sở cầu sự, gia bất tư nghì: (Phàm sở cầu việc gì đều không thể nghĩ bàn)
Kinh Quán Tự Tại Nghi Quỹ, kinh Văn Thù Sư Lợi Nghi Quỹ cùng các kinh Nhứt Tự Đảnh Luân … hơn mười bổn kinh đều nói Chơn ngôn hạnh nhơn, khi cầu thành tựu thì dùng bốn thứ vật:
1. Cung tên, rựa búa, câu, luân (bánh xe pháp luân) xử, cảnh (cái kính) hoặc sổ châu, bình bát, ca sa, tất cả các vật dụng của chư Tăng.
2. Hùng hoàng, thư hoàng, cũng như các món thuốc khác.
3. Lấy đất trên bờ sông hòa làm bùn dẻo rồi nắn hình sư tử, voi, ngựa, trâu tức loài đi chạy. Hoặc gà, ngỗng, chim, công, sí điểu … là loài bay cùng các hình thú khác.
4. Hoặc đắp vẽ, điêu khắc tất cả hình tượng Phật, Bồ Tát, Minh Vương; tùy lòng ưa muốn phân ra làm một việc, y pháp thành rồi mà đem để trong Đàn; như pháp tụng chú, khi thấy được ánh lửa xẹt ra; hoặc tay cầm hoạc xoa thân hoặc cỡi lên cùng trợ bạn tri thức bay lên hư không. Hoặc có người thấy thành tựu, hay thấy các người khác được thành tựu; tất cả đều được bay lên hư không, dạo chơi khắp thế giới, cúng dường chư Phật, Bồ Tát, đều thọ mạng một kiếp, chứng được Sơ địa, Bách pháp minh môn. Nếu khi thấy xẹt khói ra, dùng y như trước sẽ được làm vua ở cõi Tiên, trụ thọ muôn muôn tuổi.
Nếu khi hơi nóng phát ra được tất cả nhơn, thiên kính ái; sở cầu như ý; đây là tướng thành tựu của ba phẩm: thượng, trung, hạ.
(Nếu có lửa sáng phát ra, đó là thượng phẩm; khói phát ra là trung phẩm, hơi nóng phát ra là hạ phẩm). Lại nói rằng: Nếu hỏa quang hiện ra, được tất cả chư Thần thường đền ủng hộ; các chúng Bát bộ thường cung kính.
Dùng tất cả Thần chú đều được tối thắng, linh nghiệm. Nếu tướng khói hiện ra, tùy chỗ đi, ở đều không chướng nạn, sở cầu toại tâm. Nếu khí nóng hiện ra: Được tất cả người và quỷ thần đồng tâm kính ái.)
Tây phương có một người được thành tựu thượng phẩm, dẫn 500 người bay lên hư không. Như tại đây (nước Tàu) có ông Hoài Nam Vương luyện chú nấu thuốc, gà chó đến liếm trong vạc đều bay lên hư không. Cho nên mọi người nói rằng: Hoài Nam thành đạo, chó sủa trong mây; Vương Kiều đắc Tiên, Kiếm bay lên trời. Dược lực còn vậy, huống chi Thần chú của Phật không thể nghĩ bàn ư! Thần Biến Sớ nói: Nguời tay cầm Tiên phương, chưa từng hòa hiệp uống dùng; lại hủy báng rằng: ban ngày bay lên hư không lại cho là hư dối, toàn là chuyện không tưởng. Lại Đại Giáo vương các kinh Đà Ra Ni nói : Hoặc khiến người tìm long nữ làm vợ, hàng dược xoa làm tôi tớ, cầm quyến tác vào tu la cung; chú vào tử thi khiến khai mở những của báu dưới đất. Hoặc nói thành nơi Thánh dược; hoặc nói tìm đến tài bảo … trong Hiển giáo, việc này ít nghe. Cho nên Tiên Đức nói: “Ngoài Tam thừa ra, riêng có pháp trì minh đó.”
Hỏi rằng: Bổn ý của chư Phật là khiến đoạn tham, sân tất cả, cớ sao khiến người khởi lòng tham cầu thế sự vậy?
Đáp: Chư Phật có phương tiện độ sanh không thể nghĩ bàn. Nghĩa là có những chúng sanh không chịu cầu thẳng tới đạo Bồ đề; vả lại tùy lòng ưa muốn, khiến trì chú cầu. Do sức Thần chú không thể nghĩ bàn, việc mong cầu được toại lòng; tất cả tội nghiệp được tiêu diệt, tự nhiên siêu phàm nhập Thánh. Như đứa trẻ con có bịnh, không chịu uống thuốc, thầy thuốc có đủ trí, thoa thuốc nơi vú mẹ; trẻ nít kia nút vào không ngờ đã uống được thuốc hay, trừ được bịnh khổ. Cho nên kinh Quyến Tác Tâm Chú có nói: Nếu có chúng sanh dù đem dua mị để cầu phú danh lợi, nếu được nghe chú này, các chúng sanh đó đời đời kiếp kiếp thành tựu được hưởng phức tụ trí huệ. Thần biến sớ nói cảnh giới Chơn ngôn. Thập địa Bồ Tát còn cho chẳng phải cảnh giới của các Ngài; huống là người trong cõi sinh tử ư! (Có người nói rằng: Đà Ra Ni phần nhiều khiến người có chỗ hy cầu, trở ngược lại gây tổn hại chúng sanh; đây là ly ngoại cầu, lấy vô cầu giống như đoạn kiến ngoại đạo. Nay Phật giáo nói: Trọn ngày cầu đó mà không thấy tướng cầu, là chơn vô cầu, chẳng đồng cây, đá, toàn là không ly cầu vậy. Cho nên Quán Âm Sao nói rằng: Tuy nhiên niệm niệm cầu, mà không có tướng năng cầu và sở cầu. Huống chi các Phật Đại từ, Đại bi đâu có cố ý làm tổn hại chúng sanh.)
5-Lợi lạc hữu tình cứu thoát u linh: Đại Bảo Lầu Các kinh, Đại Bi Tâm kinh cùng Mâu Lê Chú … hơn mười lăm bổn kinh đều nói: Nếu có chúng sanh được thấy thân người trì chú, hoặc nghe âm thanh lời nói, hoặc đi qua trong bóng của họ thì được tận diệt tội thập ác, ngũ nghịch, đời sau được sanh vào các nước Phật. Lại người trì chú, chỗ mắt họ thấy, chỗ thân họ chạm xúc, hết thảy loài hữu tình cũng diệt tất cả tội, đời sau sanh các nước Phật. Những người trì chú khi đi đường gió thổi, hơn gió này chạm vào hành giả rồi cuốn đi; hoặc thân rửa, tắm trong sông, suối nước cuốn đi những gì kỳ cọ; hoặc khi trời mưa, ngửa mặt lên không trung tụng chú, những hạt nước mưa trên không trung cũng thấm nhuần linh lực; hoặc trên đỉnh núi tụng chú, chỗ nào tầm mắt phóng tới tất cả sự kiện trên ảnh hưởng đến các chúng sinh như sau: mọi tội lỗi đều tiêu diệt, đời sau được sanh về cõi Tịnh độ của chư Phật, hóa sanh trong hoa sen. Như thế gian chỗ có thuốc độc, đi qua dưới gió, khi gió chạm vào liền bị tổn thương; còn có công lực khó lường huống nữa là Thần chú không thể nghĩ bàn ư! Lại kinh Quyến Tác nói: “Nếu nghe Đà Ra Ni mà sanh hủy báng, cũng vẫn được lợi ích. Như người có ác tâm đi vào trong rừng long não, chiên đàn rồi chặt bẻ, giậm, đạp, làm cho gãy, ngã tất cả, chính thân thể kẻ phá hoại đó cũng dính được cái hương khí thơm tho kia. Cho nên trong Phật Đảnh Tụng có nói: “thần thông thắng hoá, khó nghĩ bàn, Đà Ra Ni môn thật là đệ nhất.” Lại trong kinh Vô Cấu Tịnh Quang, kinh Bất Không Quyến Tác, kinh Phật Đảnh Tôn Thắng, kinh Tùy Cầu … nói “Nếu vong nhơn đã tạo nhiều ác nghiệp, khi chết đọa tam đồ; Chơn ngôn hành giả liền xưng tên tuổi, tộc họ của vong linh rồi chuyên tâm tụng chú, lúc bấy giờ vong ấy sẽ lìa khỏi được ác thú và sanh nơi thiên thượng.
Lại lấy Chơn ngôn chú vào nơi đất cát, hoặc hoa sen rải trên mộ, trên thi hài của vong nhơn liền được sanh về các cõi Tịnh độ của chư Phật. Ngoài ra các y vật, thân phần cốt nhục của vong nhơn mà được bóng người trì chú chói vào cũng được sanh về những nước Phật. Lại chép Đà Ra Ni rồi đặt trên hài cốt của vong nhơn, vong đó liền sanh nơi thiên cung. Cho nên bực Tiên triết nói rằng: Bụi rơi, bóng chói, Thần dạo thiên cung; rải đất, rưới nước, thức lìa ác thú”.
Hỏi: Vong nhơn tạo nghiệp đã thành, bị đọa trong tam đồ vì sao Chơn ngôn hành giả hoặc xưng tên, họ vong nhơn, hoặc chú nguyện vào cát đất để trên mộ, trên thi hài mà lại giúp cho vong đó chuyển khỏi đường ác khổ, còn được vui sướng ở nước Phật ư! Chẳng những kẻ tục sĩ ôm lòng hoài nghi, mà chính các vị xuất gia cũng khó tin.
Đáp: Kẻ trí lấy thí dụ mà được hiểu. Nay xin nêu ra thí dụ này: “Như cấm chủ của người đời; cấm lửa không cháy, cấm dao không đứt, cấm rắn không mổ, còn hay biến hữu độc thành ra hết độc; huống chi là Thần chú của đức Như Lai, không thể đổi khổ được vui đấy ư!” Lại như sách Liệt Tử có nói: “Sư Văn khéo gảy đàn cầm, chính nhằm mùa xuân mà gảy dây Thương để đàn khúc Nam, gió mát thổi đến, cây cỏ thành trái. (Dây Thương âm Kim, thuộc mùa thu, khúc Nam là khúc tháng tám, nhờ dây mà được khí Thu, cỏ cây ra trái) Chánh mùa thu mà gảy giây Giác, đánh khúc Giáp Chung có gió mát trở lại, cây cỏ phát sum xuê. (Giác, âm Mộc, nói thuộc mùa xuân, khúc Giáp Chung thuộc tháng hai, sinh ra được Xuân khí, cây cỏ đơm hoa). Đương mùa hạ mà gảy dây vũ để đánh khúc Hoàng Chung, sương tuyết rơi xuống, sông suối đông lạnh, đóng cứng. (Vũ âm Thủy, thuộc về mùa đông, khúc Hoàng Chung thuộc tháng mười một, nên băng tuyết đóng lại). Mùa đông mà gảy dây chủy, đánh khúc Nhuy Tân mặt trời chiếu sáng rực rỡ, băng cứng tiêu tan (Chủy âm Hỏa thuộc mùa hạn, khúc Nhuy Tân thuộc tháng năm nên được Hạ khí, băng cứng bị tiêu tan). Đây là cái thuật khảy đàn của thế gian còn biến mùa thu làm xuân, mùa đông làm hạ; huống nữa Thần chú của đức Như Lai, không thể nghĩ bàn. Và Thần chú nhiệm mầu lẽ nào lại không biến cải con đường ác khổ để được an vui nước Phật sao !!!
Ngài Trang Tử nói: Ngoài Lục hiệp, Thánh nhơn xét đến nhưng không luận
bàn. Kinh Hoa Nghiêm nói: Lượng trí công đức đầy đủ của Thập địa Bồ Tát, thì Cửu địa Bồ
Tát không hay biết, huống nữa đức
Như Lai là vua trong các Thánh; chỗ
có bí mật tâm ấn, đâu có thể lấy vọng tình của phàm phu mà muốn so lường đó ư! Kia như con cá nằm đáy giếng làm sao biết
được sự sâu rộng ở biển Đông;
chỉ nên tin chắc đó. Kinh Quán
Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Thần chú nói:
Nếu có người trì chú, phàm ra làm
việc gì cũng được thành tựu;
chỉ cần phải thâm tín không được sanh nghi. Người trì chú đã có công năng lợi
lạc hữu tình, cứu thoát u linh.
Như kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi
Tâm Đà Ra Ni nói: Người nào trì
chú sẽ không bị mười lăm món ác tử:
1) Không khiến người kia bị chết vì đói
khát, khốn khổ.
2) Không bị chết vì côt trói, đánh đập.
3) Không bị oan gia, cừu đối mà chết.
4) Không bị quân trận giết nhau mà chết.
5) Không bị chết vì cọp beo làm hại.
6) Không bị chết vì rắn rít độc cắn.
7) Không bị chết vì nước trôi, lửa cháy.
8) Không bị chết vì trúng độc
dược.
9) Không bị trùng độc hại chết.
10) Không bị cuồng loạn, thất niệm mà
chết.
11) Không bị chết vì núi cây, bờ gộp sập
đè.
12) Không bị người ác yếm mị mà chết.
13) Không chết vì tà thần, ác
quỷ rình hại.
14) Không bị ác bịnh triền thân mà chết.
15) Không bị phi phản tự hại mà chết.
Lại kinh Bất Không Quyến Thần Chú Tâm nói: Người tụng chú lúc lâm chung được tám món lợi thù thắng:
1) Khi mạng chung, thấy Quán Tự Tại Bồ Tát hiện tướng Tỳ
Kheo đến trước mặt an ủi.
2) Mạng chung được an ổn, không bị
các sự thống khổ.
3) Lúc sắp mạng chung, mắt không trợn lớn, miệng không hả méo, tay
buông thong thả, chân duỗi ngay
ngắn, không tiết ra phân nhơ, nước tiểu, không bị trụt, rớt xuống đất.
4) Lúc sắp bỏ mạng, an trụ nhớ chánh
niệm, ý không loạn tưởng.
5) Lúc chết không úp mặt.
6) Khi sắp chết được vô tận biện.
7) Khi đã xả mạng rồi, tùy nguyện sanh về
các cõi Tịnh độ chư Phật.
8) Thường cùng thiện hữu không xa rời nhau.
Kinh Thập Nhứt Diện Quán Thế Âm Thần chú nói:
Người tụng chú được bốn
món công đức:
1) Khi lâm chung được thấy chư Phật.
2) Mạng chung không bị đọa vào chốn ác thú.
3) Không nhơn hiểm nạn, tai ách mà chết.
4) Được sanh về cõi Cực Lạc thế
giới.
6)Chư Phật mẫu giáo hạnh bổn
nguyện: Nghĩa là tất cả chư Phật đều từ Đà Ra Ni sanh ra. Kinh Lầu các
nói: Chơn ngôn là mẹ của chư
Phật, thành chủng tử Phật, nếu
không Chơn ngôn thì không thành chánh giác. Tất cả Tam Tạng giáo điển đều do Đà Ra Ni phát xuất cho nên
trong kinh Tối Thượng Đại
Thừa Bảo Vương nói có bốn thừa:
1) Thinh Văn thừa
2) Duyên Giác thừa.
3) Phương Quảng Đại thừa.
4) Tối Thượng Kim Cang thừa. Đó là Đà Ra
Ni tạng vậy. Tất cả pháp đều từ Kim Cang lưu xuất. Thần Biến Sao
nói: Nghìn dòng, muôn phát khởi từ
núi Tích Thạch, Côn Lôn. Mươì hai
phần kinh phát xuất từ Tạng Tổng
trì bí Mật; lại muôn hạnh cũng do Đà Ra Ni mà ra. Nghĩa là trong Chơn
ngôn, mỗi mỗi một chữ toàn là Vô
tướng pháp giới. Muôn hạnh đều từ pháp giới mà ra. Cho nên kinh Trì Minh
Tạng Nghi Quỹ nói rằng: Chữ ÁN:
tức vô tướng pháp giới mà ra.
Thần Biến Sớ nói: Vô tướng pháp giới toàn
là Chơn ngôn, Chơn ngôn toàn là vô tướng pháp giới;
vả lại Chơn ngôn cũng gọi
là Tam tạng. Có trì chú ấy đều là Tam tạng. Nghĩa là trong Chơn ngôn mỗi mỗi một chữ đều gm đủ cả Giới, Định, Huệ; đủ
muôn hạnh không ra ngoài Lục độ, Lục
độ không ly Tam học. Đã nói Chơn ngôn gọi Tam tạng tức
biết Chơn ngôn bao gồm muôn hạnh. Chơn ngôn là Tổng hạnh, các pháp môn khác là chi lưu của các hạnh môn.
Hỏi: Trên dẫn kinh nói rằng: Đà Ra Ni là Thiền
Định Tạng trăm nghìn tam muội thường hiện tiền. Nay lại nói: Chơn ngôn tổng hành Tam tạng, tức biết Chơn ngôn tổng chứa đủ tất cả môn thiền định. Cớ gì Thiền giả ngày nay không cho trì
chú ư?
Đáp: Trong các truyện ký Thiên Trúc và Trung Hoa, xưa nay các thiền đức đêù vâng làm các điều thiện, huông
gì Thần chú là vô
tướng định môn tâm ấn của Phật ư!
Trong Bạch Tán Cái Đà Ra Ni có bài tụng rằng: Khai vô
tướng môn viên tịch tông, tự tự quán chiếu Kim
Cang định. Lại nói: “Du Già diệu chỉ truyền
tâm ấn; Ma Ha diễn hạnh tổng trì môn”. Như Long Thọ Bồ Tát trong Truyền
Đăng Lục ở Tây Thiên Thiền tông Tổ
thứ 14, chép lược ra kinh Tạng Trì
Minh, hoằng dương Thần chú Chuẩn Đề.
Ngài Nhất Hạnh thiền sư là Thánh nhơn trong xứ Trung Hoa còn tán thuật thần biến Chơn ngôn;
Ngài Trí Giả được túc
mạng thông, rộng bày nghi quỹ Thần chú.
Khế Phù thiền sư có người
hỏi Tối Thượng thừa pháp, Ngài
liền dạy tụng Mật ngôn; xưa
các thiền sư đâu không
cho trì chú ư?
Lại như Thiền tôn đã noí: Tất cả các pháp đều
là chơn như. Trì tụng Chơn
ngôn đâu không phải là chơn như? Nay
có thiền sư hoặc giảng
sư thấy hoằng truyền Mật chú, sợ mất lợi của
mình, tâm sinh tật đố. Vậy xin quý vị hiện tại cũng như vị lai đề phòng ác
báo. Cho nên trong kinh Phật Đảnh Vô Cấu Quang
Minh Đà Ra Ni có nói: xưa có ông Vô
Cấu Bà la môn vì người tuyên nói bí mật Thần
chú.
Có ông Quang Minh trưởng giả,
trước kia có nhiều người quy ngưỡng,
sợ mất cái lợi của mình mà sanh ác tâm, ác
tâm hưng khởi, ông liền mắc bịnh lác hủi,
thọ đại khổ não. Cho
đến khi chết đọa trong vô gián đại địa ngục
chịu khổ một kiếp; trở lại đọa
vào địa ngục một kiếp nữa mới
được sinh làm người mà không có hai con mắt. Vì nhờ duyên lực kiếp trước, trở
lại gặp Vô Cấu Bà la môn đang
làm bực Tỳ Kheo tuyên nói Mật
chú, vừa nghe liền sinh vui mừng rồi nhờ chú lực kia, lúc chết sinh cõi
trời … Như trên đã nói: Hủy báng tuy
có lợi ích nhưng sự lợi
ích đó xa vời lắm và hủy báng đều có tội
như ông trưởng giả Quang
Minh kia vậy. Bởi vì Mật chú là tâm ấn của chư Phật có vô lượng Minh
vương, chư Thiên, Long thần thảy
đến hộ trì nên khiến người hủy
báng hiện đời đa phần mắc bịnh lác hủi, xin mong kẻ thời lưu cần
phải dè dặt.
7)-Tứ chúng dị
tu Kim Cang thủ hộ: Tất
cả tứ chúng chỉ cần hiểu lời
nói, đi, đứng, nằm, ngồi trong bốn oai
nghi được dễ dàng tụng tập. Lại chỉ miệng
tụng được gọi chơn hạnh. Năng trừ phiền não, an lạc pháp
thân không nhờ thông suốt giáo điển,
như người bịnh được uống thuốc, uống vào liền trừ bịnh, thân an không cần
phải rộng hiểu sách thuốc. Cho nên
kinh Bát Nhã nói: Tổng
trì cũng như diệu dược, cũng như
Thiên cam lồ, năng trị lành các bịnh,
uống thứ đó thường an vui. Phật Đảnh Đà
Ra Ni sớ nói: Trai giới không
bẩm thọ mà được đầy đủ; quả chứng không
xa mà có thể được: Tiêu hết nạn, đạt lợi ích. Tự tu hành lại hóa
độ các người khác, bởi nhơn của người, bởi
quả của người, không có cái gì mà không do điều này mà hiện rõ sự việc được.
Lại Mạn Trà La Sớ nói: Ai niệm Thần chú của đức Như Lai, tâm
tâm ám hợp tâm của Như Lai; đọc Mật ngôn của Bồ Tát, nguyện
nguyện phù hợp nguyện của Bồ
Tát; sanh tử nào không lánh xa, Niết
Bàn nào mà không chứng đắc. Nếu y các tôn khác tu hành, cần yếu phải
biết rộng giáo lý của Phật, tỏ
ngộ được Chơn tâm, nhiên hậu tu
hành mới là chánh hạnh. Nếu chưa ngộ mà tu, thì không phải chánh
hạnh.
Như người bịnh ở đời, cần yếu phải biết rộng sách thuốc, hiểu rõ dược tánh mới trị được bịnh, tức khó được trong
muôn một vậy. Nên biết Thần chú hạnh
môn tóm lược công đức thâm
sâu; khắp dẫn bảy chúng mau đến Bồ
đề, rất là yếu đạo. Cho nên Ngài Nghĩa Tịnh Tam Tạng nói
rằng: Lên trời cỡi rồng, sai sử trăm thần, phương pháp lợi sanh chỉ
cần thần giúp đỡ.
Hỏi: Nếu y theo Hiển giáo sanh lòng
tin, nương theo lòng tin phát sanh sự hiểu biết. Nương sự hiểu biết phát khởi hạnh tu
hành, tu hành thành đắc quả.
Nay Mật tông Thần chú không cần sanh hiểu biết, chỉ cần tụng liền được đạo quả. Đã vượt quy tắc thông thường, khó mà sanh lòng tin?
Đáp: Như người bịnh trong thế gian không hiểu phương thuốc, gặp được thuốc thần
diệu mà uống, liền được thân
tâm an ổn. Nếu đã không hiểu dược tánh, vì sao trừ bịnh thân an? Thuốc đời còn
vậy, huống chi Thần chú không
thể nghĩ bàn của đức Như Lai và giáo
lý của đức Như Lai không thể lấy một lý mà suy. Đã nói Hiển, Mật có
khác không thể lấy một mặt mà giải. Khởi Tín Sao nói: Ép chặt trụ đàn mà lên dây, toàn là ngu, ôm cây đợi thỏ
chẳng phải kẻ trí. Chỉ nên tin mà tu trì sẽ mau đắc đạo quả.
Nếu chẳng sanh lòng tin, thì
luống uổng công chẳng ích gì.
Kinh Đại Bi Tâm nói: Tụng
trì Thần chú thì tất cả mọi sự mong cầu đều được kết quả toại
nguyện. Chỉ trừ đối với Thần chú sanh lòng nghi.
Lại nói rằng: Nếu có sanh nghi không tin đó là trong trăm vạn kiếp thường ở chỗ ác đạo, không nghe được Tam-Bảo. Lại các kinh đã nói: Kẻ hành giả đối với Chơn ngôn trong bốn oai nghi, có vô lượng thiên
long bát bộ chúng, Kim Cang thiện thần thường
theo gia hộ. Cho nên kinh Quảng
Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi
Tâm Đà Ra Ni nói tụng trì Đà Ra Ni là Vô úy tạng; Long thiên, thiện
thần thường theo hộ trì. Lại nói rằng: Nếu như pháp tụng chú,
tức có tất cả thiện thần, long
vương Kim Cang Mật tích thường theo hộ vệ không xa lìa hai bên người trì chú,
như giữ gìn đôi tròng con mắt,
như hộ mạng mình. Lại
người trì chú: Hoặc ở núi non, đồng
vắng, ngủ riêng một mình, các thiện
thần sẽ thay nhau ngủ nghỉ để bảo
vệ trừ sạch tai chướng. Nếu ở nơi rừng sâu
nuí thẳm, quên mất đường đi; các Thiện thần, Long vương hoá làm kẻ
thiện nhơn chỉ đường về. Nếu
gặp giặc, trận đánh, bị bọn cướp giựt, trốn lạc qua nước khác, thiện
thần long vương sẽ dắt dẫn về chỗ cũ. Nếu ở nơi núi
rừng, đồng vắng, nước, lửa hiếm ít; Long
vương ủng hộ hóa ra nước, lửa. Cho nên kia có bài tụng rằng: Long
Thiên chúng Thánh đồng từ hộ, trăm nghìn tam muội đốn huân tu. Lại trong kinh Đại Phật Đảnh Đà
Ra Ni nói: Giả sử có chúng
sanh nơi tâm tán loạn, miệng vẫn tụng Thần chú, thường được tám vạn bốn ngàn na do tha, hằng hà sa cu
chi Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát chủng
tộc, mỗi mỗi đều có các Kim Cang
chúng mà làm quyến thuộc, ngày đêm thường theo hộ vệ người này. Dù có ma vương phương tiện rình
tìm người kia, cũng không thể được. Các tiểu quỷ thần xa lánh kẻ thiện nhơn này ngoài mươi do
tuần. Nếu quyến thuộc của ma muốn rình tìm đến xâm nhiễu kẻ thiện
nhân; các chúng Kim Cang lấy chày đập nát đầu, nhỏ như hạt
bụi. Hằng ngày khiến người này làm việc như nguyện. Cho nên lời
tụng kia nói: Tám vạn bốn ngàn Kim Cang chúng: Đi, đứng, nằm, ngồi đều theo hộ thân (hành giả).
Mật bộ các kinh rộng nói hộ trì cho người tụng chú; muốn biết rõ, xin xem trong Tạng giáo.
8)-Khiến phàm đồng Phật Như Lai quy mạng: Chơn
ngôn người hành giả, trì tụng Thần chú khi khoá số đã mãn; thân, khẩu, ý ba nghiệp ra làm các việc thiện ác, đều thành pháp môn vô lậu công
đức. Cho nên Bạch Tán Cái tụng nói rằng: Tụng xong một vạn tám ngàn
biến, biến biến nhập nhập
nơi vô tướng định. Tên thành
Kiến cố Kim Cang tràng, tự tại được gọi là Phật giữa loài người. Dù cho mắng chửi, chẳng lấy làm lỗi, chư Thiên vẫn
nghe tiếng thành ra Phạn âm.
Kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni nói
rằng: Tụng trì Đà Ra Ni ấy,
trong miệng nói ra lời gì, hoặc thiện hay ác tất cả thiên long nghe đều là pháp âm thanh tịnh.
Lại có bài kệ rằng:
Thí như thuốc linh đơn;
Điểm sắt thành vàng báu.
Tụng trì Đà Ra Ni;
Biến phàm làm Thánh Hiền.
Lại Thần Biến Sớ nói rằng: Chơn ngôn hành
giả năng khiến ba nghiệp giống như ba nghiệp của Bổn Tôn. Lại kẻ hành giả trì chú,
được quy mạng; cho nên được chư
Phật quy mạng. Cho nên Phật
Đảnh kệ rằng: Mười phương thế giới các đức
Như Lai hộ niệm, cho người đó hộ trì vậy đó.
9)Đầy đủ tha lực, tự lực hiện
thành Bồ đề:Trong Hiển giáo có Tự
lực và Tha lực, hai môn Thập Trụ Luận, Niệm Phật cảnh
… nói:
1)Tự lực môn:
Nghĩa là tu lục độ hết thảy
muôn hạnh gọi là khó hành đạo, như
người đi bộ xa nghìn dặm thì phải đến chậm.
2)Tha lực môn:
Các pháp môn niệm Phật gọi là
dễ hành đạo. Như người đi đường thủy
xuôi thuyền thuận gió thì được
đến mau.
Nay trong Chơn ngôn bí Mật Thần
chú đầy đủ hai lực Tự và Tha. Trong kinh
Đại Thừa Bảo Vương Đẳng và các kinh nói: Hành giả Chơn ngôn ngày
ngày được đầy đủ Ba la Mật, viên
mãn công đức. Lại Phật Đảnh tụng
rằng: Không trì trai ấy mà gọi
là trì trai, không trì
giới mà xưng là trì giới, Tăng pháp 250 giới, Tỳ Kheo Ni phạm Bát Ba La, khi nghe Phật Đảnh Đà Ra Ni liền được cụ túc Thanh Văn giới. Và trong Phật Đảnh Sớ
có nói: Hạnh môn Bồ Tát tùy
hành thời đủ; nay không hành mà tự đủ, là nhờ sức của Thần chú có đầy đủ muôn hạnh; lời nói này không sai.
Trong Chơn ngôn Tự Lực Môn:
Mỗi mỗi một chữ đều là toàn thân của
chư Phật. Kinh Mạt Pháp Trung
Nhứt Tự Chú nói: Sau khi diệt độ, Ta
biến thân làm chú này … tức là Tha Lực môn.
Lại có các kinh nói: Chơn ngôn hành
giả hiện đời năng thành Vô
thượng Bồ đề. Cho nên kinh Lầu các nói rằng: Ta
từ nơi vô lượng cu chi trăm
ngàn kiếp, tuy hành khổ hạnh mà
không được Bồ đề nhờ có vừa
nghe Đà Ra Ni thì tăng thêm hạnh tương ưng, liền thành chánh giác.
Lại Ngũ tự Đà Ra Ni tụng rằng:
Chư Phật sức bổn thệ, hiện thành các
việc Thánh. Nghĩa là chỉ ngồi niệm một lần, liền thành tới Chánh giác.
Lại tựa Đà Ra Ni nói rằng: Nếu học chứa nơi tâm, tức là ba nghiệp của phàm phu sẽ biến thành chỗ
chứa công đức, chỉ trong
đời này liền được Bồ đề, không cần lao nhọc tấn tu nhiều kiếp. Lại Thần Biến Sớ nói rằng: Xét Đà Ra Ni làm Đại bất tư nghì
thừa, thành Phật thần
thông. Nghĩa là y các môn thành Phật, như cỡi dê, ngựa, đi nghìn dặm đường qua thời
gian rất lâu mới đến. Y Đà Ra Ni môn thành
Phật, như cỡi thần thông đi nghìn dặm đường, móng ý liền đến nơi. Chỗ đến
tuy không khác, chỗ nương pháp có chậm, mau vậy. Lại các môn thành
Phật như mài vàng đá lấy ngọc
Như Ý, tu theo Chơn ngôn thành Phật như
sức thần thông lấy ngọc
Như Ý. Lại còng nói rằng: Các vị Bồ
Tát vì cầu Bồ đề, tuy tu các khổ hạnh khó làm, như sự cứu lửa cháy đầu. Trải
qua vô lượng kiếp còn không được thành tựu như vậy. Chơn ngôn hành giả nếu
tu không thiếu pháp tắc thì chỉ trong đời này sẽ được thành công,
đắc chứng Bồ đề. Cho nên Thần
Biến Sao nói: Đốn siêu các địa
vị, là ví dụ nhờ các thần thông, mau xa lìa phiền
não ràng buộc, là vì nhờ chú thuật, và
trong Đại Giáo Vương kinh
nói: Nếu không y bí
mật khóa tụng tu hành, sẽ không thành công trọn vẹn ở
cõi Vô thượng Bồ đề.
10)Chư Phật Như Lai thượng nãi cầu học: (Các Phật Như
Lai còn tìm cầu học).
Như Đại thừa Trang Nghiêm Bảo Vương
kinh nói: Các Phật cũng cầu Thần
chú, huống nữa phàm phu không trì tụng sao? Cho nên các kinh kia noí:
Trong một lỗ chân lông của Quán Thế Âm Bồ Tát có vô lượng chư Phật và Bồ Tát. Phổ
Hiền Bồ Tát vào trong một lỗ chân lông
của Quán Âm, trải qua mười hai năm mà chẳng biết chừng đổi. Lại nói
rằng: Đức Quán Âm có sáu
chữ Đại Minh Đà Ra Ni; tất
cả Như Lai đều không biết chỗ
sở đắc kia. Nhơn vị Bồ Tát làm
thế nào mà biết được, đến nỗi nói: Phật trên hoa sen đã thành Phật, để cầu sáu chữ Đại Minh này
…
Hỏi: Phật có đủ tất cả trí, đâu không biết Đà Ra
Ni đó ư?
Đáp: Có ba nghĩa:
1)Tiêu biểu Đà
Ra Ni này là thù thắng thâm
sâu, khiến tôn trọng. Như trên đã nói: Phật không biết mà tự cầu đó.
2)Phật trong Quyền giáo: Như A la hán hay Bích chi Phật: Phật
trong Quyền giáo không thể biết
được Viên tôn Mật chú. Như Tiểu
Thừa cực quả không hay biết được pháp thâm sâu của Đại Thừa.
3)Mật tôn Thần chú: Tức thể, lại là Viên viên quả hải cho nên Phật không đắc được. Như Thích Đại
Thừa Luận nói: Viên viên quả hải Phật cũng không đắc được. Nay Lục
Tự Đại Minh và Chuẩn Đề Thần
chú tức thể lại là Viên viên
quả hải vậy. (Nay Mật bộ tất cả Thần
chú là pháp sở thuyên trong Hiển giáo. Thật mà luận thì hàm đủ năng thuyên trong Hiển giáo. Nay Lục Tự và Chuẩn
Đề chính là quả hải trong Hiển giáo).
Hỏi: Kinh Bảo Vương chỉ nói Lục Tự Đại Minh,
Phật không biết được, cớ sao nay nói Chuẩn Đề mà Phật cũng không biết được?
Đáp: Kinh Bảo Vương kia nói: Lục Tự Đại Minh rồi,
lại liền nói Chuẩn Đề, nên biết Chuẩn
Đề là đồng quả hải. Lại Phật chỉ biết Phật nói Chơn ngôn ở trong Ngũ bộ: Phật bộ gồm
thâu tất cả. Nay Chuẩn Đề độc
riêng ngoài Ngũ bộ; chẳng chẳng
Viên viên quả hải đó là pháp
gì?
Lại hỏi: Luận rằng Chơn ngôn chỉ là ngôn giáo năng thuyên tức
lấy tiếng danh, câu văn thể là
thể, vì sao được cho là viên viên quả hải?
Đáp: Nếu hỏi câu này tức là chưa biết tôn
chỉ của Mật giáo. Nay bí Mật Thần
chú trong Mật giáo tức là pháp sở thuyên. Như trên đã nói, tất cả lời nói, văn tự thuộc
về lời năng thuyên, phần nhiều lấy
thinh, danh, cú văn làm thể hoặc lấy Duy Thức là thể. Trong Chung giáo nói: Lấy Vô tánh chơn như làm
thể. Trong Đốn giáo lấy Tuyệt
đãi chơn như làm thể. Trong Viên giáo nói
lấy Thập huyền làm thể hoặc Hải ấn tam muội làm thể. Kia trong ngôn ngữ năng thuyên, trong Hiển
giáo còn như vậy, tức là tuyệt
đãi chơn như thập huyền môn, huống là Mật
tôn Thần chú, chính là Nhứt
chơn pháp giới trong Hiển viên
ư! Lại Thích Ma Ha Diễn Luận, căn
cứ vào năng thuyên trong sanh diệt môn. Hội tướng quy tánh, lấy chơn
như làm thể hoặc lấy Nhứt tâm làm thể. Trong chơn như môn, lấy tuyệt đãi chơn như làm
thể. Lại Thậm Thâm Huyền Lý
Luận, Bất Động Bổn Nguyên Luận, trong hai bổn Luận kia, lấy gì
làm thể, lấy lý suy gạn, thì biết nói là lấy bất nhị quả hải làm
thể. Lời nói năng của nó còn
như thế, tức cũng là bất nhị quả
hải; huống hồ Lục Tự Đại Minh, Chuẩn
Đề Thần chú, nghĩa là pháp sở thuyên trong
hai bổn Luận kia ư! Lại từ xưa, các Ngài đều cho rằng: Bí Mật Thần chú là
chư Phật tâm ấm, chỉ có Phật
mới biết được chẳng phải nhơn vị có thể hiểu. Lại nay, kinh Bảo
Vương nói: Phật cũng không biết Thần
chú, nếu chẳng phải viên viên quả hải đó thì còn là gì nữa? Mong các học
giả rộng lòng mà thể nhận, chớ vọng
tình tự chấp!
Hỏi: Vì sao chư Phật không đắc được viên viên
quả hải?
Đáp: Viên viên quả hải là pháp bổn tánh thành tựu, tiêu biểu chẳng
phải chư Phật tu nhơn đoạn chướng mà được; lại tiêu biểu ra ngoài nhân quả vậy. Vì thế nên nói chư Phật không được cầu mà
tự cầu đó. Cứ thật mà luận, các Phật đều biết được. Cho nên Ngài Hiền
Thủ nói: Tánh đức quả hải, tức là thập Phật cảnh giới.
Hỏi: Lục Tự Đại Minh và Chuẩn
Đề Thần chú đã là viên viên quả hải,
tức là thập Phật cảnh
giới cớ gì phàm phu trì tụng được?
Đáp: Nay trong Mật giáo nói: Lấy Chơn ngôn bất tư nghì lực khiến ba nghiệp phàm phu đồng ba
nghiệp của Như Lai mà được trì tụng. Lại Mật tôn Thần
chú, nếu y cứ vào chỗ hiểu biết, tức
là chỉ cảnh giới của chư Phật.
Nay nhơn vị phàm phu tuy
chẳng hiểu biết, chỉ nên trì
tụng tự nhiên diệt chướng thành
đức, siêu phàm nhập Thánh. Riêng một nghĩa này người tục nghe nói mà phát sợ.
Lý vượt thường tình; người đã ít nghe, kẻ phàm phu lại khó tin. Những bậc bác học Thượng Trí, xét kỹ nơi đây mà rõ. Ba nghĩa trên
đây tùy lòng thủ, xả (lấy hay bỏ).
Mười môn từ trước đến đây lược bày Mật bộ, y tận kinh điển, chẳng phải kẻ hạ ngu này hay biết được Mật chỉ. Cho
nên Thần Biến Sớ Sao nói: Chỉ
có tay Kim Cang mới sờ được chỗ
kín đáo; con mắt liên hoa mới
có thể nhìn suốt nơi thâm sâu nhiệm
mầu kia.
Hỏi: Mười môn như trên trình bày hết trong Chơn ngôn Viên giáo, là tất cả Chơn ngôn có hơn kém của ngũ giáo mỗi mỗi không đồng, hay là tất cả chơn môn mà không hơn kém đều là Viên giáo ư?
Đáp: Theo Thần Biến Sớ có hai môn:
1)Tùy tha ý môn: Tất cả Chơn ngôn có hơn kém, các bộ không đồng. Lại Ngài Thanh Lương sớ chú, ngoài ba Tạng: Kinh, Luật, Luận lập thêm một tạng bao gồm Đà Ra Ni làm thành bốn tạng. Một trong ba thừa đều có bốn tạng, làm thành mười hai tạng. Trong Tam thừa đều có Đà Ra Ni, Ngũ giáo sau đây mỗi mỗi cũng có Mật chú, như chú trong kinh A Hàm tức là Tiểu giáo. Các chú trong kinh Bát Nhã tức là Thỉ giáo. Chú trong kinh Kim Quang tức là Chung giáo. Chú trong Lăng Già tức là Đốn giáo. Lục Tự Đại Minh Chơn ngôn và Chuẩn Đề Thần chú trong kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương tức là Viên giáo. (trong mười môn trước đây đã dẫn chứng kinh Đà Ra Ni, phần nhiều là Viên giáo)
Phạn ngữ Đà Ra Ni: Tàu dịch là Tổng Trì, là lấy Giáo, Lý, Hạnh, Quả bốn pháp làm thể. Trong Ngũ Giáo Đà Ra Ni, mỗi mỗi bao gồm thâu nhiếp những giáo trong đó gọi là Giáo, Lý, Hạnh, Quả vậy.
(Hơn kém của Ngũ giáo nay nên lên ví dụ này để kẻ mới học được biết):
1) Tiểu giáo như sắt.
2) Thỉ giáo như đồng.
3) Chung giáo như bạc.
4) Đốn giáo như vàng.
5) Viên giáo như ngọc Như ý.
2) Tùy tự ý môn: Tất cả Chơn ngôn lại không hơn kém đều là Tỳ Lô Giá Na Đại Bất Tư Nghì Bí Mật Tâm Ấn. (Trong một đời giáo pháp cho đến Chơn ngôn do quỷ thần nói đều là Tỳ Lô Giá Na Như Lai, muốn pháp môn có lợi ích khắp chúng sanh, quý Ngài đã biến ra các loại quỷ thần mà nói Chơn ngôn được; chứ không phải thập loại quỷ thần mà nói Chơn ngôn được; các loại khác cũng vậy). Lại Hiền Thủ Thanh Lương lấy nghĩa phán giáo trong nhứt kinh gồm nhiều giáo. Tức là biết Chơn ngôn trong tất cả kinh đều là Viên giáo.
Tất cả Chơn ngôn gọi là Tổng Trì, năng tổng hàm nhiếp vô tận Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Thật mà nói: Dùng tất cả hai môn mới phù hợp Phật tâm nhiệm mầu. Cho nên Thần Biến Sớ nói: Chơn ngôn hành giả hay ở trong sai biệt, giải vô sai biệt nghĩa. Ở trong vô sai biệt giải sai biệt nghĩa. Nên biết đó là người khéo đạt tướng Chơn ngôn vậy.
Hỏi: Trên nói Mật bộ là bao la rộng rãi, thâm sâu, khó suy, khó nghĩ: chưa xét pháp này hợp với căn khí nào.
Đáp: Chỗ hợp căn khí có hai:
1)Tùy tha ý môn: Chơn ngôn đã nói có Ngũ giáo không đồng, căn khí cũng có năm món sai khác, Đà Ra Ni trong ngũ giáo. Các giáo lý trong đó gồm có ba căn: thượng, trung, hạn. Cho nên trong kinh Mạn Trà La Sớ cũng có nói: Đà Ra Ni thông suốt đầy đủ các căn hơn kém.
2)Tùy tự ý môn: Tất cả Đà Ra Ni đều hợp với bất tư nghì viên căn. Cho nên Phật Đảnh tụng nói rằng: Thần thông thắng hóa bất tư nghì; Đà Ra Ni là môn tối đệ nhất. Nay có người chưa từng tán ngưỡng Mật giáo, mà phần nhiều cho rằng Đà Ra Ni tạng chỉ hợp hạ căn. Đây là lời nói rất sai lầm. Nhưng trong các kinh Đà Ra Ni hoặc gọi Tối Thượng Thừa, hoặc gọi Vô thượng Thừa, hoặc gọi Kim Cang Thừa, hoặc gọi Bất Tư Nghì Thừa, đâu có phải là chỉ hợp với hạ căn? Cho nên Ngài Thanh Lương nói: Lấy cạn làm sâu có phải lỗi báng pháp không? Mong các học giả nên lưu tâm, không nên cố chấp cái nghe trước mà sinh ra khinh chê. Ngũ giáo ở Thiên Trúc và Trung Hoa Hiển Mật cả hai đều rõ mới là bậc thông nhơn. Từ trước đến đây Hiển Mật đều giảng giải xong.
Một đời Thánh Giáo của đức Như Lai không ngoài hai môn Hiển Mật. (Nhơn Vương Kinh Sao nói: Tất cả giáo pháp của Đức Phật, không vượt ra ngoài hai tôn: Hiển Mật.)
Ở trong Hiển giáo tuy Ngũ giáo không đồng mà một bộ kinh Hoa Nghiêm rất tối tôn, tối diệu; là tủy của chư Phật, là tim của Bồ Tát. Đầy đủ cả ba tạng, tổng hàm cả Ngũ giáo. (Phạn bổn có mười vạn bài kệ, ở đây đã dịch ra, 80 quyển, 60 quyển, hoặc 40 quyển… Tuy văn nghĩa rộng rãi bao la, trong đó rất cốt yếu, chỉ riêng một quyển kinh văn, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện là then chốt của Hoa Nghiêm, bộ máy của việc tu hành, đáng khen ngợi và tôn sùng, các đạo lưu ở Ấn Độ đều y theo đây mà tu hành vậy.)
Nơi trong Mật bộ, tuy Ngũ bộ có khác mà một chú Chuẩn Đề rất linh diệu và thù thắng; chú là mẹ của chư Phật, là mạng của Bồ Tát bao gồm đủ Tam Mật, tổng hàm cả ngũ bộ. (Phạn bản có mười bài kệ, phương này đã phiên dịch có các bản của chư Sư,tuy nghĩa thức khác nhau chút ít, nhưng trong đó có phần rất cương yếu, thì bản dịch của Ngài Thiện Vô Úy Tam Tạng đời Đường là lãnh tụ của các Đàn, là thuốc bổ của bảy chúng; có thể truyền thừa và sùng thượng. Các bậc cao đức ở Tây Thiên, Đông Độ đều nương nơi đây mà trì tụng vậy.)
Nay hai tôn này chỉ ghi soạn ra đây những pháp linh diệu mà Ngài đã truyền nói. Sau thời kỳ Phật nhập diệt, người đời bây giờ không nghe, không biết (không nghe Hiển viên, không biết Mật viên). Cách 700 năm sau đến khi Ngài Long Thọ ra đời đều hoằng truyền cả hai tông Hiển viên và Mật viên rồi đem lưu hành trong nhơn thế. Nay ở trong đời mạt pháp, được gặp Quốc Vương Thiên Hựu Hoàng Đế Bồ Tát, trong cả nước như được thuốc bổ lưu thông. (Tức là hai giáo Hiển Mật).
Tôi là một vị Tăng tài mọn, may mắn gặp được lòng cảm động vui mừng; ôm hoài bão trọn đời cũng như người bịnh gặp được linh đơn, diệu dược; kẻ nấu bếp được ngọc Như ý Bảo châu, lòng rất vui mừng hớn hở, bèn sáng tác ra bài thơ ngâm ca tụng rằng:
Bao năm hân hạnh, dứt quên sầu,
Gặp hai Hiển Mật toại lòng mong.
Thần công Ngũ bộ đáng nên nhờ.
Mười huyền diệu quán, quán không thôi.
Âm cao giọng thấp Chơn ngôn chuyển.
Thân được đến đi chơi HOA TẠNG.
Pháp giới chúng sanh việc vui mừng.
Chỉ nghi vì bởi tại lòng tin.
Kinh dạy:
Trước khi vào Đạo tràng, nên làm lễ Phật, Sám hối, Tùy hỷ, Khuyến thỉnh, Phát nguyện.
Nên thọ Bồ đề Tâm Giới; năm pháp này là quy tắc sáu thời hành đạo của các vị Bồ Tát.
Đầu tiên vào Đạo tràng quỳ gối, chấp tay, niệm chú dâng hương.
Đọc Tịnh Pháp Giới Chơn ngôn: Án Lam (7 biến)
Tịnh Khẩu Nghiệp Chơn ngôn: Tu Rị, Tu Rị, Ma Ha Tu Rị, Tu Tu Rị Ta Bà Ha. (3 lần).
Tịnh Tam Nghiệp Chơn ngôn: Án, Ta Phạ Bà Phạ Thuật Đà Ta Phạ, Đạt Ma Ta Phạ, Bà Phạ, Thuật Độ Hám (3 lần)
Phổ Cúng Dường Chơn ngôn: Án, Nga Nga Nẵng Tam Bà Phạ Phiệt Nhựt Ra Hộc. (3 lần)
Đọc bài nguyện hương:
Nguyện thử hương hoa vân,
Biến mãn Thập phương giới.
Nhứt nhứt chư Phật độ.
Vô lượng hương trang nghiêm.
Cụ túc Bồ Tát đạo,
Thành tựu Như Lai hương.
Phổ lễ Chơn ngôn: Án Phạ Nhựt Ra Vật. (7 lần)
ĐẢNH LỄ:
Nhứt tâm đảnh lễ A Súc Thế Tôn
Nhứt tâm đảnh lễ Bảo Sanh Thế Tôn.
Nhứt tâm đảnh lễ Quán Tự Tại Vương Thế Tôn.
Nhứt tâm đảnh lễ Cực Lạc thế giới A Di Đà Thế Tôn.
Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương Pháp giới chư Phật Thế Tôn.
Nhứt tâm đảnh lễ Thất Cu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết, Đại Chuẩn Đề, Đà Ra Ni
Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương Pháp giới Tu đa la Tạng Nhứt thế Đà Ra Ni môn.
Nhứt tâm đảnh lễ Tỳ Lô Giá Na cung điện trung Thất Cu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Quán Tự Tại Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Di Lặc Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Hư Không Tạng Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Phổ Hiền Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Địa Tạng Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Vô Năng Thắng Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Đại Thế Chí Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương pháp giới Nhứt Thế Bồ Tát Ma ha tát.
Nhứt tâm đảnh lễ Ma Ha Ca Diếp Tôn giả Chư Đại Thanh Văn Tăng.
Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương pháp giới Nhứt thế Tam thừa Hiền Thánh Tăng.
Sám hối:
Ngã đệ tử … chí tâm sám hối.
Đại Thánh Chuẩn Đề Tôn.
Nhứt thế Hiền Thánh chúng.
Kim thân nhược tiền thân.
Sở tạo chư ác nghiệp.
Chúng tội giai sám hối. (3 lễ).
Khuyến thỉnh:
Ngã đệ tử … chí tâm khuyến thỉnh
Thập phương nhứt thiết Phật.
Hiện tại thành đạo giả,
Ngã thỉnh chuyển Pháp luân,
An-Lạc chư chúng sanh,
Thập phương nhứt thế Phật,
Nhược dục Bát Niết Bàn.
Ngã kim đầu diện lễ,
Khuyến thỉnh cửu trụ thế (3 lễ).
Tùy hỷ:
Ngã đệ tử … chí tâm tùy hỷ.
Tam thế chư Như Lai,
Bồ Tát Thanh Văn chúng.
Tu tập tam thừa nhơn,
Nãi chí phàm phu loại.
Sở hữu chư phước thiện,
Thí giới thiền định huệ.
Nhẫn nhục tịnh tinh tấn,
Ngã kim giai tùy hỷ (3 lễ)
Phát nguyện:
Ngã đệ tử … chí tâm phát nguyện.
Nguyện chư chúng sanh đẳng,
Tất phát Bồ đề tâm.
Vĩnh đoạn chư phiền não,
Đương chứng nhứt thế trí.
Phục nguyện ngã kim tu,
Chuẩn Đề bí mật hạnh.
Sở cầu chư Tất Địa,
Tùy tâm tốc thành tựu. (3 lễ)
Hồi hướng:
Ngã đệ tử … chí tâm hồi hướng.
Dĩ ngã sở tu phước,
Cập dữ Chơn ngôn hạnh.
Hồi hướng chư hữu tình,
Cọng thành Vô thượng đạo.
Phục dĩ kim sở tu,
Lễ bái cập sám hối.
Khuyến thỉnh tịnh tùy hỷ,
Phát nguyện hồi hướng thiện.
Tất thí dữ chúng sanh,
Vĩnh đoạn tam đồ khổ.
Đồng thú đạo Bồ đề,
Pháp giới chơn như hải. (3 lễ)
Thất Phật Diệt Tội Chơn ngôn (3 lễ)
Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ ni nể đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế ta bà ha.
(Nghĩa là lấy bàn chân mặt gác lên trên vế chân trái, hoặc tùy ý ngồi cũng được.)
HAI TAY KIẾT ẤN TAM MUỘI: (Nghĩa là lấy tay mặt duỗi ra, để ngửa lên bàn tay trái, rồi hai ngón tay cái giáo móng với nhau). Để ngang dưới rún, thân cho tề chỉnh, tâm cho an tịnh. Rồi tưởng trên đỉnh đầu ta có một chữ LAM:
1) Chú Tịnh Pháp Giới: Án Lam (108 biến)
2) Chú Hộ Thân: Án Xỉ Lâm (108 biến)
3) Chú Lục Tự Đại Minh: Án Ma Ni Bát Di Hồng (108 biến)
Khi tụng xong chú nói trên thì xả ấn Kim Cang Quyền trên đảnh, rồi quỳ xuống tụng bài kệ Chú Chuẩn Đề:
Chuẩn Đề công đức tụ.
Tịch tịnh tâm thường tụng,
Nhứt thiết chư đại nạn
Vô năng xâm thị nhơn,
Thiên thượng cập nhơn gian
Thọ phước như Phật đẳng.
Ngộ thử như ý châu
Định hoạch vô đẳng đẳng.
Nam Mô Thất Cu Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Vương Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần rồi lạy)
Lúc lạy xong, ngồi kiết toàn già và kiết ấn Chuẩn Đề: Lấy ngón áp út và ngón út bên mặt cùng bên trái xỏ lộn với nhau vào trong hai lòng bàn tay, dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ vịn vào lóng đầu của hai ngón tay giữa; còn hai ngón tay cái thì đè lên lóng giữa của ngón tay áp út bên mặt; rồi để ấn ấy ngang ngực. Chí tâm tụng 108 lần chú Chuẩn Đề và chú Đại Luân Nhứt Tự như vầy: Nam Mô Tát Đa Nẫm Tam Miệu Tam Bồ Đề Cu Chi Nẫm, Đát Điệt Tha. Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm (tụng 108 lần) muốn trì tụng nữa hoặc tùy lòng. Nên tụng từ chữ Án trở xuống Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm. Tụng ký số làm chừng như trên, hoặc trì nhiều hơn cũng tốt. Khi niệm đủ rồi muốn nghỉ thì xả ấn lên trên đảnh, kế dùng tay mặt kiết ấn Kim Cang Quyến mà ấn theo thứ tự năm chỗ sau đây:
1) Trên đảnh.
2) Nơi vai bên trái.
3) Ở vai bên mặt
4) Tại ngang ngực.
5) Nơi yết hầu.
Trong lúc tay ấn vào năm chỗ ấy thì miệng đọc Thần chú HỒNG HỒNG cho liên tục, chừng nào đủ năm chỗ rồi, thôi tụng xả ấn lên trên đảnh đầu và tụng:
Ngã kim trì tụng Đại Chuẩn Đề.
Tức phát Bồ đề quảng đại nguyện.
Nguyện ngã định huệ tốc viên minh
Nguyện ngã công đức giai thành tựu,
Nguyện ngã thắng phước biến trang nghiêm,
Nguyện cọng chúng sinh thành Phật đạo.
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp,
Giai do vô thỉ tham sân si,
Tùng thân ngữ ý chi sở sanh,
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa bồ tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật (108 lần)
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (10 lần)
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (10 lần)
Nam Mô Chuẩn Đề Vương Bồ Tát (10 lần)
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (10 lần)
Nguyện ngã lâm dục mạng vong chung thời
Tận trừ nhứt thiết chư chướng ngại.
Diện kiến bỉ Phật A Di Đà
Tức đắc vãng sanh Cực Lạc Quốc.
Tự Quy Y Phật,
Đương nguyện chúng sanh
Thể giải đại đạo,
Phát Vô thượng tâm.
Tự Quy Y Pháp,
Đương nguyện chúng sanh
Thâm nhập kinh tạng,
Trí huệ như hải.
Tự Quy Y Tăng,
Đương nguyện chúng sanh
Thống lý đại chúng
Nhứt thiết vô ngại.
Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh,
Giai cọng thành Phật đạo.
Phương pháp an bố chín chữ Thánh Phạn Chuẩn
Đề:
Hành giả trước khi trì chú, hoặc sau khi trì,
An bố khắp thân phần,
Được vô lượng phước đức.
Hoặc mỗi khi tọa thiền quán tưởng chín
chữ an khắp thân thể, rất là mầu
nhiệm: ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA-BÀ HA.
ÁN:
An ký trên đỉnh đầu,
Ánh sáng như mặt trăng
Phóng ra vô lượng quang,
Trừ diệt tất cả chướng.
CHIẾT:
An ký nơi đôi mắt
Sáng màu như nhật nguyệt
Chiếu phá mọi u ám
Phát sinh trí huệ minh.
LỆ:
An ký nơi cổ,
Màu sáng cám lưu ly (xanh & đỏ)
Hiển bày các sắc tướng,
Đầy đủ Như Lai trí.
CHỦ:
An ký tại tim (ngực)
Màu trong trắng như tơ,
Khiến tâm được thanh tịnh
Mau đến đạo Bồ đề.
LỆ:
An ký hai vai,
Sắc màu sáng huỳnh kim,
Người Quán tưởng chữ này
Thường mặc giáp tinh tấn
CHUẨN:
An ký ở tại rún
Màu sắc vàng trắng đẹp,
Chóng lên diệu đạo tràng
Không thối Bồ đề tâm
ĐỀ:
An ở hai bắp vế
Sáng màu vàng hơi lợt,
Mau chứng đạo Bồ đề
Được ngồi tòa Kim Cang.
TA-BÀ:
An ở hai bắp chân
Sắc màu đỏ rực rỡ,
Nếu thường quán chữ này
Mau chuyển được Pháp Luân
HA:
An ở hai bàn chân
Ánh sáng như trăng tròn,
Hành giả Quán chữ này
Mau đến đạo Viên tịch.
Khi cất nhà mới, đến ngày nhập trạch thì lấy một cái chén mới (Lâu nay chưa dùng làm gì) đựng nước trong lấy giữa lòng giếng vào lúc nửa đêm, rồi tay trái kiết ấn Bảo Thủ: (Nghĩa là lấy ngón tay giữa và ngón tay áp út, co lại bấm vào lòng bàn tay, mà giơ ngón tay cái, ngón tay trỏ và ngón út thẳng lên) rồi bưng chén nước, còn tay mặt thì kiết ấn Kiết Tường. (nghĩa là lấy ngón tay cái co lại bấm vào đầu ngón áp út và giơ ngón trỏ, ngón giữa và ngón út lên rồi thư chữ LAM:
vào trong chén nước, rồi tụng 21 biến Chuẩn Đề có ghi sau đây), rồi đứng giữa nhà, lấy tay nhúng nước đó mà rải về tám phương: trên, dưới. Sau lại dùng son viết chín chữ Phạn của chú Chuẩn Đề như vầy vào giấy vàng. ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA BÀ HA (Viết bằng chữ Phạn),
rồi đem dán đủ trên các cửa và chí
tâm cầu nguyện Phật để tụng chú ấy luôn ba đêm, thì nhà ở được yên
ổn, không có quỷ quái nhiễu loạn mà lại được
sự cát tường. Nhà đương ở mà sanh
yêu quái, thì cũng làm như trên.
Bị quỷ mị làm cho đau ốm, lấy cành dưng liễu hay
nhánh thạch lựu, mắt nhìn vào nhánh
cây, miệng chăm tụng chú Chuẩn
Đề 108 biến, rồi lấy nhành cây ấy mà đập,
phủi trên thân người đau, tức thời lành
bịnh.
Nếu người bịnh ở xa, cũng làm phương
pháp ấy; gia trì trong nhánh cây 108 biến rồi đêm về phủi trên
mình bịnh nhơn.
Trẻ em bị bịnh quan sát (Hay khóc dạ đề)
Mua chỉ ngũ sắc về, bảo một đứa trẻ (gái) nhỏ xe hiệp lại, rồi
mình cầm chỉ ấy tụng một biến chú Chuẩn Đề rồi gút lại một gút, cứ tụng và gút luôn cho đủ 21 gút, rồi lấy
chỉ đeo vàơ mình đứa nhỏ, bịnh nó sẽ lành ngay. Nếu trong thân người các chi
tiết bị đau nhức, nên gia trì Thần chú vào
trong tay 21 biến mà xoa vào chỗ đau cũng được lành bịnh. (Muốn trị bịnh theo
pháp này, phải là người trì chú tu
hành trong thời gian lâu dài mới
có hiệu nghiệm.)
(Còn người mới tụng Phạn âm chưa thuần tâm không chuyên nhất,
không hiệu nghiệm mà đắc
tội nặng. Khi vào tự chữa cho mình lành
bịnh rồi mới trị cho người khác).
Người bịnh trầm trọng:
Niệm chú Chuẩn Đề trong chỉ ngũ sắc, cứ niệm mỗi câu gút một gút cho đủ số 108 gút đeo
trên cổ bịnh nhân thì được lành bịnh. Nếu người ở xa, nên vẽ hình bịnh nhân rồi
nhìn vào hình, xưng tên một lần, trì
chú một biến, cho đến khi đủ 108 lần rồi mới lấy chỉ đó đeo vào hình
nhơn thì bịnh cũng lành được. Lúc đi đừng, vào rừng, đi thuyền, tàu, phải nên
nhớ tụng chú Chuẩn Đề để hộ thân và tránh khỏi tai
nạn.
Bất Không Quyến Thần Biến kinh nói: Nếu các chúng sanh tạo đủ thập ác, ngũ nghịch, tứ trọng, tội số như vi trần, đầy khắp thế giới. Khi thân hoại mạng chung bị đọa vào ác đạo. Dùng Chơn ngôn này gia trì vào trong đất cát thật sạch cho đủ 108 biến rồi tán rải trên thi hài của vong nhơn hoặc trên mồ mả họ. Vong nhơn kia nếu ở địa ngục, ngạ quỷ, tu la, súc sanh … Nhờ oai lực gia trì của Chơn ngôn, nhờ sức thần thông của chú lực, lúc bấy giờ liền được ánh hào quang của chư Phật rọi vào thân và trừ được các quả báo, xả thân khổ sở, vãng sanh về nước Cực Lạc tây phương Liên hoa hóa sanh, thẳng đến thành Phật không còn bị đọa lạc.
Chơn ngôn: Án A Mộ Già Vĩ Lô Tả Nẵng Ma Hạ Mẫu Nại Ra. Mạ Nỉ Bát Nạp Mạ Nhập Phạ Ra Bát Ra Mạt Đa Dã Hồng.
Lấy cát giữa lòng sông đem về phơi khô, trộn vào ít châu sa, thần sa, để trong chén nước sạch. Tay kiết ấn Bảo Thủ bưng chén cát, còn tay mặt kiết ấn Cát Tường. Mắt ngó vào chén cát, miệng tụng Thần chú Tỳ Lô 108 biến làm chừng, gia trì cho được ba đêm rồi đem cát ấy rải lên mồ mả hay thi hài của người chết trùng, hay chết bất đắc kỳ tử mà vong nhơn không siêu được, làm phương pháp này liền được siêu sanh. Hoặc viết Thần chú này trên vải, giấy vàng rồi đắp lên thi hài người chết, vong họ sẽ nhờ chú lực được siêu sanh cõi Phật.
Nẵng Mồ Tát Phạ Đát Tha Nghiệt Đa Nẫm Án Vĩ Bổ Lã Nghiệt Bệ Mạ Nĩ Bát-ra Bệ Đát Tha Đa Nễ Nại Xả Nỉnh Ma Nĩ Ma Nĩ Tô Bát-ra Bệ Vĩ Ma Lê Ta Nghiệt Ra Nghiễm Tỷ Lệ Hồng Hồng Nhập-phạ Lã Nhập-Phạ Lã Một Đà Vĩ Lô Chỉ Đế Hủng Hế-dạ Địa Sắc-sỉ Đa Nghiệt Bệ Ta-phạ Ha.
Thần chú này viết chữ Phạn trên chuông, trên bảng, trống, trên tràng phan, trên vách tường. Viết trên giấy, vải đeo mang trong thân, viết trên áo mặc vào thân, hoặc đọc hay tụng các chúng hữu tình nghe tiếng, nghe danh liền được tiêu trừ bao tội chướng, ngủ thức được yên ổn thân tâm, không loạn động. Các chúng sanh mắt thấy, tai nghe, thân chạm xúc đều được tiêu tội đắc phước. Ai thường trì, đọc,tụng, thân hiện tại không bị các bịnh khổ, khi lâm chung được sanh về các nước Phật.
PHỤ THÍCH
Tụng 10 vạn biến hay 20 vạn biến trong mộng thấy Phật, Bồ Tát liền thổ ra vật đen. (Vật đen tiêu biểu cho ác nghiệp, mửa ra là tướng tội diệt phước sanh, cho nên tự thấy trong miệng thổ ra vật đen hay cơm đen.) Mộng thấy chư Thiên, Đường, Tự Xá (Nhà, chùa, tịnh xá rộng lớn) hoặc trên núi cao, hoặc thấy ở trên cây cao (Không bị tội nghiệp hệ lụy, cho nên được thăng lên. Đây là thiện nhơn được thành tựu nên thấy thiên, đường, tự, xá) Hoặc thấy ở trong ao lớn tắm rửa (là tịch trừ tội cấu được thân thanh tịnh). Hoặc mộng thấy thân bay lên hư không (không bị tội nghiệp ràng buộc cho nên thân khinh cử nhẹ nhàng) hoặc thấy cùng chư Thiên nữ an vui khoái lạc (được sức giữ gìn thiện căn tương ưng nên cùng thấy vui khoái lạc.) Hoặc thấy thuyết pháp (được thị giáo lợi hỉ). Hoặc thấy râu tóc rụng rớt (râu tóc rụng rớt là pháp Tây quốc ngoại đạo, râu tóc rụng rớt đều là tiêu biểu đoạn trừ phiền não căn gốc vậy). Hoặc nói rằng thấy thân mình cạo bỏ râu tóc. Hoặc thấy ăn cơm sữa, uống nước cam lồ (thấy ăn sữa là thành tựu được phước lành của thế gian, uống nước cam lồ là được pháp vị xuất thế). Hoặc vượt qua sông, suối, biển lớn (được khỏi biển khổ). Hoặc leo ngồi trên tòa sư tử (được tòa pháp vương) Hoặc thấy cây Bồ đề (là kiến đạo tướng). Hoặc cỡi thuyền (là nương cỡi thuyền Bát Nhã là được cái tướng đến bờ giải thoát. Tô Đất Địa kinh nói rằng: Hoặc thấy cỡi sư tử, cỡi trâu trắng, nai trắng, ngỗng trắng … đều là cái tướng Tất Địa thành tựu). Hoặc thấy bực Sa Môn (được ly thế nhiễm mà ra khỏi tam giới). Hoặc thấy cư sĩ mặc áo trắng, áo vàng che đầu (Vàng là tiêu biểu chánh, trắng là tiêu biểu tịnh, tức là thấy bạch tịnh Chánh pháp mà phú hộ). Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng (tiêu biểu phá phiền não vô minh ám). Hoặc thấy người đồng nam đồng nữ (không bị phiền não tham dục làm ô nhiễm). Hoặc thấy trên cây có nhũ quả (nhũ nghĩa là trắng, trắng là thiện nghiệp, nghĩa là được thế, xuất thế gian thiện nghiệp quả báo). Hoặc thấy người hắc trượng phu trong miệng tuôn ra lửa hừng hẫy cùng với họ đấu chiến được thắng (nghĩa là cùng phiền não ma cộng chiến mà đắc thắng). Hoặc thấy ác mã, trâu nước muốn đến húc người trì tụng Thần chú. Người trì chú hoặc đánh, hoặc nạt nộ, sợ mà bỏ chạy (nghĩa là đối với si phiền não ma, mà được thắng vậy). Hoặc ăn sữa cháo, tôn Phạn (là được thượng vị phước thiện thành tựu). Hoặc thấy Tô Ma Na Hoa (hoa đây nói là xứng ý hoa, sắc vàng trắng mà rất thơm, cây cao ba, bốn thước rũ xuống che như tàng lọng. Nghĩa là tiêu biểu sở cầu thiện pháp quyết được xứng ý. Hoặc thấy có mùi hương thơm, bạch hoa hương tiêu biểu cho hương của ngũ phần pháp thân. Nghĩa là được ngũ phần thiện nghiệp). Hoặc thấy quốc vương (nghĩa là được đại nhơn hộ niệm được tôn quý thắng nghiệp).
Nếu không thấy những cảnh giới như vậy, phải biết người đời trước đã tạo ngũ vô gián tội, nên càng phải trì tụng mãn 70 vạn biến, 90 vạn biến, trăm vạn biến liền thấy những cảnh giới như trên, nên biết đó là tội đã diệt liền thành tiên hạnh. Những cảnh giới hảo mộng như trên đây đều là cái tướng chứng nghiệm thành tựu của người hành giả.
Ai ơi! Xem hết quyển này,
Gắng theo phương pháp trong đây tu hành.
Niệm Phật trì chú Chuẩn Đề,
Sống đời hạnh phúc chết về Tây phương.
Niệm Phật chẳng khác thuyền trôi,
Thuận theo gió nước vào bờ rất mau.
Chuẩn Đề kiêm niệm chẳng lơ,
Khác nào phản lực động cơ đời này.
Quyết đi thì đến không sai,
Chuẩn Đề niệm tụng Thánh thai hiện tiền.
Chuyên cần chí kính lòng thành,
Chuẩn Đề như ý toại lòng ước mong.
LỜI CẦU NGUYỆN
VÀ
HỒI HƯỚNG
Hôm nay công việc phiên dịch và ấn loát đã xong. Con
đốt nén hương lòng dâng lên đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật và đức Chuẩn Đề
Vương Bồ Tát, đồng thùy gia hộ cho con và các hàng Phật tử hiện đời được phước
huệ tăng long Bồ đề tâm tăng trưởng, Kẻ đã mất được nhờ công đức chú lực mà
sanh về các cõi Phật
Nguyện đem công đức lưu hành pháp Hiển Mật này, hồi
hướng cho tất cả pháp giới chúng sanh đồng thành Phật Đạo.
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát
THÀNH PHẬT TÂM YẾU
Lời nói đầu của dịch giả
Lời tựa của soạn giả
1. Hiển giáo Tâm yếu
2. Mật giáo Tâm yếu
3. Hiển Mật Song Biên
4. Vui mừng được gặp lời trước thuật
5. Chuẩn Đế Sám Pháp
6. Vào đạo tràng trì Chú Chuẩn Đề
7. Cách dùng kính đàn và an chín chữ chú Chuẩn Đề
8. Nhập nhà mới và trị bệnh
9. Chú Tỳ Lô Giá Na Phật
10. Chú Quảng Bát
PHỤ THÍCH
LINH NGHIỆM HẢO MỘNG
CỦA NGƯỜI TRÌ CHÚ CHUẨN ĐỀ
CẢM NIỆM
LỜI CẦU NGUYỆN
VÀ HỒI HƯỚNG
THƯỢNG TỌA THÍCH VIÊN ĐỨC (1932–1980)
Thượng tọa thế danh
là Phạm Văn Nghi, pháp húy Đồng Viên, pháp tự Thông Lợi, pháp hiệu Viên Đức,
nối pháp đời thứ 43 Thiền phái Lâm Tế dòng kệ Chúc Thánh. Thượng tọa sinh năm
Nhâm Thân (1932) tại làng Định Trung, xã An Định, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Thân phụ là cụ ông Phạm Giãn, một bậc túc nho, thân mẫu là cụ bà Ung Thị Bình,
một Phật tử thuần thành.
Năm Nhâm Ngọ 1942,
khi lên 11 tuổi, ngài được mẹ đưa đến chùa Bảo Sơn, làng Phong Thăng, huyện Tuy
An xin xuất gia tu học và được Hòa thượng Phổ Huệ cho thế phát. Nhờ sự tận tâm
giáo huấn của bổn sư, nên sau 5 năm, ngài đã tinh chuyên nhị thời khóa tụng, thông
đạt ba cuốn luật Tiểu, và nắm rõ giáo lý cơ bản của Phật đà, nên được Tổ Phổ
Huệ chọn cho phép học ngoại điển tại Trường Lương Văn Chánh, Phú Yên.
Nhằm ngày lễ vía đức
Quán Thế Âm, 19 tháng 2 năm Canh Dần 1950, ngài được chính thức được làm lễ thế
độ do Hòa thượng Thích Phước Trí chứng minh.
Năm Nhâm Thìn 1952,
bổn sư Phổ Huệ viên tịch, ngài được Hòa thượng Bảo Sơn tiến cử về tổ đình Phước
Sơn và được Hòa thượng Thích Phước Trí chấp nhận làm Y Chỉ sư cho ngài.
Năm Quý Tỵ 1953,
ngài được ra học nội điển tại chùa Thập Tháp và sau lại được vào học với Hòa
thượng Phước Hộ tại tổ đình Từ Quang, Đá Trắng, Phú Yên.
Năm Giáp Ngọ 1954,
ngài được vào Phật học viện Hải Đức-Nha Trang, học ngay chương trình Trung đẳng
Phật học. Ngài là một học tăng xuất sắc trong khóa học, nên có lần pháp sư Diễn
Bồi, người Trung Quốc, đến giảng tại Phật học viện, gặp ngài là một học tăng,
Pháp sư nhận xét: “Thị giáo lợi
hỷ, lưu danh hậu thế”. Quả thật, sau này ngài là một trụ cột hoằng
truyền Mật giáo tại miền Nam Việt Nam, một bậc thâm uyên Phật học.
Ngày Rằm tháng Chạp
năm Định Dậu 1957, Phật học viện Trung Phần mở giới đàn đầu tiên của Phật học
viện, ngài được thọ Cụ túc. Giới đàn do Hòa thượng Thích Giác Nhiên, chùa Thiền
Tôn-Huế làm Đàn đầu hòa thượng.
Năm Mậu Tuất 1958,
ngài tốt nghiệp Cao đẳng Phật học viện Trung Phần-Nha Trang.
Năm Kỷ Hợi 1959,
ngài được Tổng hội Phật giáo Trung phần cử làm giảng sư tại Tỉnh hội Phật giáo
Dăklăk.
Năm 1960-1962, ngài
được Tổng hội Phật giáo cử đảm nhiệm chức vụ Chánh Hội trưởng Phật giáo Dăklăk.
Trong thời gian lãnh đạo Phật giáo ở tỉnh nhà, ngài đã không quản gian lao, đem
ánh đạo đến tận các vùng sâu vùng xa, khai sơn gần 30 ngôi chùa, cùng với Đại
đức Thích Quảng Hương, trụ trì Sắc tứ Khải Đoan bấy giờ, cụ thể các chùa xa như
Kiến Đức, Sùng Đức, Phổ Tế… Ngoài ra, ngài còn xây dựng và kiện toàn các cơ sở
của giáo hội tại địa phương.
Đầu năm Quý Mão
1963, ngài kiêm giảng sư tại Vạn Giả-Tu Bông-Nha Trang. Nơi đây, ngài đã xây
dựng được một Đại bảo tháp thờ kinh Pháp Hoa và một tịnh thất tu niệm Mật tông
tại chùa Phật giáo Tu Bông rất nghiêm trang. Cùng năm này, ngài được cử vào làm
Chánh Hội trưởng Phật giáo tỉnh Quảng Đức.
Năm Giáp Thìn 1964,
ngài khai sơn chùa Dược Sư, phường Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột. Để ủng hộ
quê hương, ngài đã cung thỉnh Đại tạng kinh cúng dường Tỉnh hội Phật giáo Phú
Yên. Cũng trong năm này, ngài được điều về làm Chánh Đại diện Tỉnh hội Phật
giáo tỉnh Biên Hòa, kiêm Tổng Thư ký Tổng vụ Văn hóa Xã hội, trực thuộc Viện
Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại chùa Ấn Quang.
Năm Đinh Mùi 1967,
ngài về nhập thất, hành trì Mật tông tại chùa Dược Sư-Buôn Ma Thuột. Cùng năm
này, ngài được Hòa thượng Vạn Ân, một bậc chuyên tu bí mật hạnh chùa Hương
Tích-Phú Yên trao kinh, truyền ấn Mật giáo. Ngày Rằm tháng 5 năm Đinh Mùi (22
tháng 6 năm 1967), ngài được Hòa thượng Từ Thạnh-chùa Thiền Sơn, trao truyền Ấn
khế để hoằng dương Chơn Ngôn tông.
Năm Canh Tuất 1970,
ngài được giáo hội cử giữ chức vụ Phó Đặc ủy Phật học vụ trong Tổng Vụ Giáo dục
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Năm Nhâm Tý 1972,
ngài đặt đá khởi công trùng tu ngôi chùa Thiền Tịnh, quận 9, Sài Gòn. Ngôi chùa
này nguyên của Tổ Bửu Chí (Hòa thượng Cố), một vị cao tăng của tổ đình Phước
Sơn vào Nam sáng lập, nhận thấy ngài có đạo lực hoằng pháp độ sanh, Tổ Bửu Chí
đã giao lại cho ngài và đi lập ngôi chùa khác hiệu là Linh Sơn ở gần đó để tĩnh
tu.
Năm Giáp Dần 1974,
ngài từ Buôn Ma Thuột về chùa Thiền Tịnh, tiếp tục hành trì và dịch thuật kinh
điển Mật tông và thành lập các đạo tràng Mật giáo, các giới đàn Bồ đề tâm giới,
truyền pháp Quán đảnh… Ngoài ra, ngài còn noi gương các bậc cao tăng đời trước
đem pháp lực mầu nhiệm chữa trị cho bá tánh khi lâm trọng bệnh.
Nói đến Mật tông, là
một pháp môn được truyền thừa cùng thời Thiền tông, Tịnh Độ tông vào Việt Nam.
Qua lịch sử Việt Nam, đã có những vị Giác Hải Thiền sư, Vạn Hạnh Thiền sư… là
những cao tăng dùng phương tiện thiện xảo độ chúng và ứng dụng con đường ngắn
nhất để đạt đạo… Cuối thế kỷ XX, Thượng tọa Viên Đức là một trong các bậc cao
tăng uyên thâm về phương pháp truyền thừa này.
Tâm nguyện lớn nhất
của Thượng tọa trong đời là muốn gặp gỡ các Lạt ma Tây Tạng, các Pháp sư Mật
giáo Nhật Bản để trao đổi các yếu chỉ về Mật giáo, nên ngài mong muốn hành
hương một chuyến đến các vùng thánh địa của Chơn Ngôn tông. Nhưng ước vọng chưa
thành thì Thượng tọa đã viên tịch trên đường hành hương vào giờ Sửu ngày 12
tháng 7 năm Canh Thân 1980. Trụ thế 49 tuổi đời với 23 hạ lạp. Bảo tháp của
Thượng tọa được môn đồ tôn tạo tại chùa Thiền Tịnh, nơi ngài đã hoằng truyền
pháp môn Mật tông.
Suốt cuộc đời hành
đạo, Thượng tọa Viên Đức đã dịch gần 100 quyển kinh luận Mật giáo. Các dịch
phẩm của ngài đã ấn hành để lại cho đời như sau:
1.- Hiển Mật Viên Thông Thành Phật Tâm Yếu (2 quyển)
2.- Kinh Chuẩn Đề Đà La Ni Hội Thích (3 quyển)
3.- Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương (4 quyển)
4.- Thất Cu Chi Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh
(1 quyển)
5.- Thất Cu Chi Độc Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni
Pháp (1 quyển)
6.- Thất Cu Chi Độc Bộ Pháp (1 quyển)
7.- Chuẩn Đề Biệt Pháp (1 quyển)
8.- Kinh Thánh Lục Tự Tăng Thọ Đại Minh Đà La Ni (1 quyển)
9.- Lục Tự Thần Chú Vương Kinh (1 quyển)
10.- Kinh Mạt Pháp Ttrung Nhất Tự Tâm Chú Đà La Ni (1 quyển)
11.- Kinh Văn Thù Sư Lợi Căn Bản Nhất Tự Đà La Ni (1 quyển)
12.- Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát Chú Tạng Trung Nhất Tự Chú
Vương Kinh (1 quyển)
13.- Uế Tích Kim Cang Thuyết Thần Thông Đại Mãn Đà La Ni
Pháp Thuật Linh
Yếu Môn (2 quyển)
14.- Kinh Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng (1 quyển)
15.- Kinh Thất Tinh Chơn Ngôn Thần Chú (1 quyển)
16.- Kinh Nhất Thiết Công Đức Trang Nghiêm Vương
(1 quyển)
17.- Kinh Trang Nghiêm Vương Đà La Ni (1 quyển)
18.- Kinh Trì Cú Thần Chú (1 quyển)
19.- Kinh Tăng Huệ Đà La Ni (1 quyển)
20.- Quán Thế Âm Thuyết Trừ Nhất Thiết Nhãn Thống Đà La Ni,
21.- Quán Thế Âm Linh Chư Căn Cụ Túc Đà La Ni,
Hoạch
Chư Thiền
22.- Tam Muội Nhất Thiết Phật Pháp Môn Đà La Ni
(Đà La Ni Tạp Quyển 7 Trích
Lược) (1 quyển)
23.- Phương Pháp Tu Tịnh Tọa (1 quyển)
24.- Văn Thù Sư Lợi Pháp BảoTàng Đà La Ni (1 quyển)
25.- Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni (1 quyển)
26.- Gia Cú Linh Nghiệm Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni Ký,
Triều Nghị Đại
Phu Kiêm Thị Ngự Sử (1 quyển)
27.- Kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni (4 quyển)
28.- Hoa Tụ Đà La Ni Chú (1 quyển)
29.- Kinh Đại Bảo Quảng Bát Lầu Các Thiện Trụ Bí Mật Đà La
Ni (3 quyển)
30.- Kinh Bất Không Quyến Tác Tỳ Lô Giá Na Phật
Đại Quán Đảnh
Quang Chơn Ngôn (1 quyển)
31.- Kinh Đại Kiết Tường Thiên Nữ Thập Nhị Danh Hiệu
(1 quyển)
32.- Bồ Đề Tâm Bồ Tát Giới Yết Ma Nghi Quỹ (1 quyển)
33.- Kinh Thất Phật Sở Thuyết Đại Đà La Ni Thần Chú (1 quyển)
34.- Kinh Nhất Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá Lợi Bảo
Khiếp Ấn Đà La
Ni (1 quyển)
35.- Đại Phật Đảnh Như Lai Phóng Quang Tất
Đát Đa Bát Đát Ra,
Đại Thần
Lực Đô Nhiếp Nhất Thiết Chú Vương Đà La Ni Kinh, Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam
Muội Chú
(1 quyển)
36.- Kinh Câu Na Hàm Mâu Ni Phật Thuyết Thần Chú (1 quyển)
37.- Đa Rị Tâm Kinh (1 quyển)
38.- Kinh Đại Luân Kim Cang Tổng Trì Đà La Ni (1 quyển)
39.- Kinh Thâm Sa Đại Tướng Bồ Tát Đà La Ni (1 quyển)
40.- Kinh Thánh Hư Không Tạng Bồ Tát Đà La Ni (1 quyển)
41.- Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Lục Tự Chú Công Năng Pháp Kinh
(1 quyển)
42.- Kinh Bảo Tàng Thiên Nữ Đà La Ni Pháp (1 quyển)
43.- Nhứt Kế Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử Đà La Ni Niệm Tụng Nghi
Quỹ (1 quyển)
44.- Kinh Thường Cù Lợi Độc Nữ Đà La Ni Thần Chú (1 quyển)
45.- Đại Như Y Bảo Châu Luân Ngưu Vương Thủ Hộ Thần Chú
Kinh (1 quyển)
46.- Kinh Trừ Bách Bịnh Chư Độc Đà La Ni (1 quyển)
47.- Mã Minh Bồ Tát Đại Thần Kực Vô Tỷ Nghiệm Pháp Niệm
Tụng Nghi
Quỹ (1 quyển)
48.- Kinh Ma Lị Chi Thiên Bồ Tát Đà La Ni (1 quyển)
49.- Kinh Bạt Trừ Tội Chướng Chú (1 quyển)
50.- Kinh Túc Mạng Trí Đà La Ni (1 quyển)
51.- Kinh Trừ Tặc Nạn Đà La Ni (1 quyển)
52.- Kinh Nhứt Thiết Như Lai Danh Hiệu Đà La Ni (1 quyển)
53.- Kinh Bí Mật Bát Danh Đà La Ni (1 quyển)
54.- Kinh Bảo Sanh Đà La Ni (1 quyển)
55.- Kinh Bảo Hiền Đà La Ni (1 quyển)
56.- Kinh Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Đà La Ni Thần Chú (1 quyển)
57.- Kim Cang Đảnh Du Già Tối Thắng Bí Mật Thành Phật Tùy
Cầu Tức Đắc Thần
Biến Gia Trì Thành Tựu Đà La Ni Nghi
Quỹ (1 quyển)
58.- Kinh Thánh Tối Thắng Đà La Ni (1 quyển)
59.- Kinh Liên Hoa Nhãn Đà La Ni (1 quyển)
60.- Kinh Thắng Tràng Anh Lạc Đà La Ni (1 quyển)
61.- Kinh Toái Trừ Chư Ác Đà La Ni (1 quyển)
62.- Kinh Tôn Thắng Đại Minh Vương Đà La Ni (1 quyển)
63.- Kinh Kim Thân Đà La Ni (1 quyển)
64.- Kinh Tối Thắng Y Đà La Pháp (1 quyển)
65.- Kinh Đại Thừa Thành Vô Lượng Thọ Quyết Đinh Quang
Minh Vương Như
Lai Đà La Ni (1 quyển)
66.- Kinh Thập Nhất Diện Thần Chú Tâm (1 quyển)
67.- Kinh Bất Không Quyến Tác Thần Chú Tâm (1 quyển)
68.- Thành Tựu
Mộng Tướng Y Pháp (1 quyển)
69.- Vô Lượng Thọ Như Lai Tu Quán Hạnh Cúng Dường Nghi
Quỹ (1 quyển)
70.- Kinh Bồ Đề Trường Trang Nghiêm Đà La Ni (1 quyển)
71.- Kinh Bí Mật Tạng Quán Thế Âm Bồ Tát Như Y Luân Đà La Ni
Thần Chú (1 quyển)
72.- Kinh Tỳ Sa Môn Thiên Vương (1 quyển)
73.- Kinh Vũ Bảo Đà La Ni (1 quyển)
74.- Kinh Đại
Kết Giới Thần Chú (1 quyển)
75.- Kinh Trì Minh Tạng Bát Đại Tổng Trì Vương (1 quyển)
76.- Kiên Lao Địa Thần Nghi Quỹ (1 quyển)
77.- Kinh Cửu Phẩm Vãng Sinh A Di Đà Tam Ma Địa Tập Đà La
Ni (1 quyển)
78.- Nhất Thiết Phật Nhiếp Tương Ưng Đại Giáo Vương Kinh,
Thánh Quán Tự
Tại Bồ Tát Niệm Tụng Nghi Quỹ (1 quyển)
79.- Kinh Quán Tự Tại Bồ Tát Tùy Tâm Chú (1 quyển)
80.- Cuộc Đời Ngài Huyền Trang (1 quyển)
81.- Phật Đảnh Phóng Vô Cấu Quang Minh Nhập Phổ
82.- Môn Quán Sát Nhất Thiết Như Lai Tâm Đà La Ni (1 quyển)
83.- Ma Hê Thủ La Thiên Kinh (1 quyển)
TIỂU SỬ DANH TĂNG
VIỆT NAM
THÍCH ĐỒNG BỔN (Chủ biên)
Diễn Giảng
AUDIO
Diễn đọc: Huệ Tâm Jun 12, 2023
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
KHÁNH-ANH SA MÔM, CHÙA PHƯỚC-HẬU, LÀNG BÌNH-NINH,
TÒNG BÌNH-LỄ, TRÀ-ÔN CẦN-THƠ NAM-VIỆT, DỊCH RA CHỮ VIỆT.
NGÀY RẰM THÁNG 5, NĂM 1952 NHÂM-THÌN, PHẬT LỊCH 2515
PHỤ LỤC
CHÚ CHUẨN ĐỀ
NGHI TẮC VỀ SỰ LẦN CHUỖI
Án Ma Ni Bát Di Hồng
( OM MANI PADME
HUM)
Tam Tạng Pháp Sư Tuyên Hóa Thượng Nhân
giảng vào năm 1971
Nếu quý vị có thể thường
xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có
công năng biến đổi sự tối tăm của sáu nẻo luân hồi trở nên sáng rạng
Sáu chữ nầy gọi là “Chú Lục
Tự Đại Minh”, mỗi chữ đều có thể phóng ra một luồng ánh sáng.
Mật tông chuyên nghiên cứu
về lời và ý nghĩa của thần chú. Phật giáo phân thành năm tông phái là: Thiền
tông, Giáo tông, Luật tông, Mật tông và Tịnh Độ tông. Thiền tông chuyên về tham
thiền tĩnh tọa; Giáo tông chuyên về giảng kinh thuyết pháp; Luật tông thì tu
trì, nghiêm tịnh giới luật, làm mô phạm trong ba cõi. Về Mật tông, thì “mật” là
bí mật, là “không biết lẫn nhau” (hỗ bất tương tri). Tịnh Độ tông thì chuyên
trì danh hiệu, niệm sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật”.
Trong năm tông phái nầy, có
người cho rằng Thiền tông là hơn hết; có người lại cho Giáo tông hay nhất; lại
có người cho Luật tông là đứng đầu; người tu theo Mật tông thì nói Mật tông của
mình là cao siêu nhất; người tu theo pháp môn Tịnh Độ thì nói pháp môn Tịnh Độ
là số một, không gì sánh bằng. Trên thực tế, các pháp đều bình đẳng, không có
cao thấp—“thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ”. Cho rằng một pháp nào đó tối
thắng, chẳng qua chỉ là cái thấy của cá nhân, mình thích tông nào thì cho tông
đó là nhất.
Bây giờ chúng ta đang nói
về Mật tông. Theo cách hiểu thông thường của mọi người thì Mật tông là Lạt Ma
giáo. Kỳ thực, Mật tông không phải là cái gì bí mật. Trong Hiển giáo thì
Hiển-Mật viên thông—trong Hiển giáo cũng có Mật giáo; như Chú Đại Bi, Chú Lục
Tự Đại Minh đều là “mật” cả. Chú Lăng Nghiêm lại càng “mật” hơn nữa. Nên nói
“mật” chính là không biết lẫn nhau.
Người không hiểu thì cho
rằng cái gì bí mật mới tốt nhất, vì nó không được truyền bá công khai. Có một
số người không hiểu Phật Pháp, lại càng làm ra vẻ thần bí, bảo: “Cái nầy không
thể giảng cho ông nghe được. Mật tông của tôi ấy à, không thể giảng cho ông
nghe được đâu!” Quý vị không thể giảng cho người khác nghe, thì tại sao quý vị
lại đề cập đến nó chứ? Tại sao quý vị lại nói: “Tôi không thể giảng cho ông
nghe”? Nếu thật sự là Mật tông thì phải không nói gì cả mới đúng, tại sao quý
vị còn nói: “Tôi không thể giảng cho ông nghe”? Quý vị nói rằng mình không thể
giảng, song, như thế có phải là quý vị đã giảng rồi không? Đó chính là quý vị
đã giảng rồi đấy! Thế tại sao còn nói là không thể giảng được? Là vì không hiểu
rõ Phật Pháp, căn bản không hiểu được cái gì gọi là “Mật Tông”!
Bây giờ tôi sẽ nói cho quý
vị nghe về Mật tông. Lời chú, thật ra không có gì bí mật cả. Sở dĩ được gọi là
Mật tông, vì khi quý vị trì tụng lời chú, bản thân quý vị sẽ nhận được sự linh
cảm mà tôi không thể biết được; khi tôi trì tụng lời chú, thì bản thân tôi sẽ
có được sự linh cảm mà quý vị không thể biết được. Vì chúng ta không thể biết
được công năng và sức mạnh của lời chú đối với mỗi người, cho nên gọi là Mật
tông; chứ bản thân bài chú tuyệt đối không phải là Mật tông. Chính năng lực của
chú mới là “mật”. Đó là ý nghĩa của Mật tông vậy.
Nếu lời chú là bí mật, thì
quý vị không nên truyền cho người khác; một khi quý vị đem truyền cho người
khác thì nó không còn là bí mật nữa. Cũng thế, Lục Tổ và Huệ Minh có một đoạn
đối đáp như sau:
Huệ Minh hỏi: “Ngoài mật
ngữ mật ý Ngài vừa giảng, còn mật ý nào nữa chăng?”
Lục Tổ đáp: "Ðiều tôi
nói với ông đó chẳng phải là mật. Nếu ông phản chiếu, thì mật ấy ở ngay nơi
ông."
Quý vị thấy không, đoạn đối
đáp trên đã nói rất rõ ràng: Điều mà quý vị có thể nói ra thì chẳng còn là bí
mật nữa. Những gì có thể trao truyền cho quý vị cũng giống như thế. Nếu là bí
mật thì không nên truyền. Sự bí mật vốn ở ngay nơi quý vị, sát bên cạnh quý vị.
Đây mới chính là cái được gọi là bí mật.
Tôi tin rằng ngay cả các
Pháp sư của Mật tông cũng không biết cách giải thích về “mật tông” như thế nào;
họ chỉ cho rằng bài chú là bí mật. Nhưng bài chú nào cũng đều có thể trao
truyền cho mọi người, lời chú nào cũng đều có thể nói ra; không có bài chú nào
là không thể nói ra cả! Nếu không được nói ra thì họ sẽ không có cách nào để
truyền cho quý vị, có đúng vậy không nào? Chúng ta giảng chân lý nầy là vì nó
có thể được truyền đạt cho quý vị, không phải là bí mật—đây không phải là Mật
tông!
“Mật,” thì không có cách gì
để truyền đạt. Điều bí mật chính là năng lực của bài chú. Không ai có thể nói
cho quý vị biết chú nầy có năng lực gì, hoặc quý vị trì tụng thì sẽ như thế
nào, như thế nào; mà “như người uống nước, nóng lạnh tự biết”—chỉ có quý vị tự
mình biết mình mà thôi, người khác không thể nào biết được, do đó gọi là “mật”.
Năng lực là bí mật, sự cảm ứng là bí mật, diệu dụng là bí mật, chứ không phải
bài chú là bí mật! Bây giờ quý vị đều hiểu rõ rồi chứ?
Những người không hiểu rõ
Phật Pháp ắt hẳn cho rằng tôi giảng không đúng. Cho dù là không đúng, tôi cũng
vẫn muốn nói như vậy. Quý vị cho là tôi đúng ư? Quý vị không thể nào nói như
vậy được! Bởi vì quý vị vốn hoàn toàn không hiểu gì cả, thì làm thế nào quý vị
biết được là tôi hiểu!!! Tôi thì càng không hiểu gì cả; tôi còn hồ đồ hơn nữa!
Có điều, trước kia sư phụ tôi đã chỉ dạy cho tôi rất rõ ràng, cho nên mới biến
đổi kẻ hồ đồ này thành một người biết giảng Chú Lục Tự Đại Minh của Mật tông!
Mật tông được chia thành
năm bộ—Đông, Tây , Nam , Bắc, và Trung ương. Phương Đông là
bộ Kim Cang, chuyên hộ trì chánh pháp; bộ Bảo Sanh ở phương Nam; bộ Liên Hoa ở
phương Tây; bộ Yết Ma ở phương Bắc và bộ Phật ở chính giữa. Nếu có thời gian
quý vị hãy nghiên cứu Chú Lăng Nghiêm, trong đó có giảng về năm bộ này một cách
tường tận.
Trên thế gian, nếu có một
người trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì ma vương không dám xuất hiện; nếu không có
người biết trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì ma vương trong ba ngàn đại thiên thế
giới sẽ lũ lượt kéo đến thế gian. Tại sao ư? Vì không có người quản thúc chúng,
năm bộ đều không hoạt động, cho nên ma vương mới dám xâm nhập thế gian. Bởi nếu
có một người biết tụng Chú Lăng Nghiêm thì ma vương sẽ không dám xuất hiện, cho
nên chúng tôi mong muốn có thêm nhiều người trì tụng Chú Lăng Nghiêm. Trong
khoá tu học hè đầu tiên của chúng ta, trước hết, tôi đã khảo hạch xem ai có khả
năng học thuộc Chú Lăng Nghiêm. Kết quả là có hai người đạt tiêu chuẩn, sau đó
lại có thêm rất nhiều người có thể tụng chú được. Bây giờ tôi sẽ giảng về Chú
Lục Tự Đại Minh.
Đầu tiên là chữ “Án”.
Khi quý vị tụng chữ “Án” nầy, tất cả quỷ thần đều phải chắp tay lại. Vì sao
phải chắp tay lại? Đó là giữ gìn pháp tắc, tuân theo khuôn phép. Quý vị tụng
một chữ nầy, thì tất cả quỷ thần đều không dám gây rối, không dám không tuân
theo mệnh lệnh. Chữ nầy có nghĩa là “tiếng dẫn” (dẫn thanh), là tiếng mở đầu
dẫn tới những lời chú tiếp theo, cho nên khi đọc chú, đầu tiên đều đọc chữ nầy.
“Ma Ni” chính là
“mâu ni”. “Mâu ni” là tiếng Phạn, dịch là “trí tịch,” tức là dùng trí huệ để
làm sáng tỏ tất cả các đạo lý, và do đó đạt đến trạng thái tịch diệt vô
sanh. Lại có thể dịch là “ly cấu,” nghĩa là rời xa tất cả bụi bặm dơ bẩn,
ví như viên ngọc “như ý,” rất toàn hảo, không có chút tỳ vết. Viên bảo châu
“như ý” nầy có công năng sanh trưởng tất cả công đức, có thể đáp ứng mọi sở
nguyện của con người.
“Bát Di” vốn nên đọc
là “Bát Đặc Di,” dịch là “quang minh viên giác”; cũng dịch là “liên hoa khai,”
tức là diệu tâm của Bồ tát Quán Thế Âm, diệu tâm ấy viên mãn đầy đủ, vô ngại.
Đó là chữ “bát di.”
Chữ “Hồng” có nghĩa
là “xuất sanh” —tất cả mọi thứ đều có thể được sanh ra từ chữ “Hồng” nầy. Lại
có nghĩa là “ủng hộ” —niệm chữ nầy thì liền cảm ứng chư hộ pháp thiện thần đến
trợ giúp, che chở cho quý vị. Lại còn có nghĩa là “tiêu tai” —quý vị có tai nạn
gì, tụng chữ nầy liền được tai qua nạn khỏi. Lại cũng có nghĩa là “thành tựu”
—bất luận quý vị cầu nguyện điều gì, đều có thể được thành tựu như ý.
Một khi quý vị niệm Chú Lục
Tự Đại Minh, thì sẽ có vô lượng chư Phật, vô lượng Bồ tát và vô số hộ pháp Kim
Cang thường xuyên đến ủng hộ quý vị. Cho nên, Bồ tát Quán Thế Âm sau khi nói
xong Chú Lục Tự Đại Minh nầy, liền có bảy ức đức Phật đến vây quanh, ủng hộ.
Năng lực và diệu dụng của Chú Lục Tự Đại Minh không thể nghĩ bàn, sự cảm ứng
đạo giao cũng không thể nghĩ bàn. Do vậy nên gọi là Mật tông. Nếu giảng chi
tiết hơn thì ý nghĩa nhiều đến vô lượng vô biên, không thể nào nói cho hết
được; thế nên tối nay tôi chỉ giảng sơ lược cho đại chúng nghe mà thôi.
Tôi có thể cho quý vị biết
một chút về thứ thần lực bí mật không thể nói ra được. Tại sao tôi bảo là “thần
lực bí mật không thể nói ra được”? Bởi vì những điều tôi nói thì chưa được một
phần vạn của sự việc. Thế là thế nào? Nếu quý vị có thể thường xuyên trì tụng
Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có công năng biến
đổi sự tối tăm u ám của sáu nẻo luân hồi trở nên sáng rạng. Điều cần thiết là
quý vị phải chuyên tâm trì tụng mới có thể đạt được thứ Tam-muội này. Bấy giờ,
ánh sáng không chỉ chiếu khắp trong sáu nẻo luân hồi, mà cả mười Pháp giới cũng
biến thành “quang minh tạng”. Tôi hy vọng mọi người dù bận rộn đến đâu cũng nên
nhín chút thì giờ để trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh nầy.
Khi nói
xong Lục Tự Đại Minh ÁN MA NI BÁT DI HỒNG này, có Thất
Thập Thất Cu Chi Phật đồng thời xuất
hiện và đồng thanh nói “CHUẨN ĐỀ CHÚ”. Vậy, nên biết LỤC
TỰ ĐẠI MINH cùng CHUẨN ĐỀ CHƠN
NGÔN lần lượt nương vào nhau. (Rộng
như Đại Thừa Trang Nghiêm
Bảo Vương kinh nói.)
Thất Cu Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Đà Ra Ni Chơn ngôn:
Nam Mô Tát Đa Nẫm, Tam Miệu Tam Bồ Đề Cu Chi Nẫm, Đát Điệt Tha. Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm.
Câu: “UM! BÚT RUM! HÙM!” là chân ngôn “Nhứt Tự chuyển luân”, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các
chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu.
Chú Đại
Luân Nhứt Tự: tức là Bộ Lâm, cũng
gọi là Nhứt Tự Tâm Chú trong đời mạt pháp. Đối với thời
mạt pháp, khi chánh pháp sắp diệt, chú này có đại thế lực. Hay giúp thế gian làm đại lợi ích, hay hộ trì Pháp
Tạng của Như Lai, hay hàng phục tất cả tám bộ chúng, hay bẽ gãy tất cả các ác chú trong thế
gian. Đây là đảnh của các Đức Phật, là tâm của Văn Thù Bồ Tát, hay ban thí vô úy cho tất cả chúng sanh và
ban sự vui sướng cho họ. Phàm
có tu trì sẽ tùy ý đắc quả,
giống như ngọc Như Ý. Có công
năng làm mãn nguyện tất cả. Nếu tụng chú này, nhìn thẳng bốn phương, các ác
quỷ thần các xa năm trăm trạm đều chạy tản
lạc. Các ác tinh diệu và các Thiên ma không
dám lại gần. Nếu trì tụng các chơn ngộn
khác sợ không thành tựu. Nên dùng
chú này cộng chung với Chơn ngôn khác đồng
thời trì tụng, nhất định sẽ kết quả. Nếu không thành tựu và hiệu
nghiệm thì các vị thần hộ chú kia cái đầu
sẽ bị phá vỡ ra làm bảy phần. Cho nên chú này thường trợ lực cho các Chơn ngôn mau có kết quả. Hoặc trì riêng chú này cũng
được. (Rộng như Văn Thù Nghi
kinh; Mạt Phát Trung Nhứt Tự Tâm chú
kinh nói.)
BỒ TÁT CHUẨN ĐỀ
LÀ HÓA THÂN CỦA BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM TRONG MẬT TÔNG.
PHẬT
MẪU CHUẨN-ÐỀ THẦN CHÚ
NAM MÔ TÁT ĐA NẨM, TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ, CU CHI NẨM, ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA-BÀ HA.
UM!
BÚT RUM! HÙM!
(108
biến)
ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA-BÀ HA.
|
|
( Trì tụng đến KHI tương tục không gián đoạn, THÌ tấc cả vọng niệm không sanh khởi sẽ thấy LINH NGHIỆM hay QUÁN 9 chữ PHẠN hiện ra rõ ràng sẽ thấy LINH NGHIỆM )
Comments
Post a Comment