NAM MÔ ĐẠI THÁNH CHUẨN ĐỀ VƯƠNG BỒ TÁT MA HA TÁT 

(3 biến)


PHẬT MẪU CHUẨN-ÐỀ THẦN CHÚ

 

 

Chuẩn đề công đức tụ

Tịch tịnh tâm thường tụng

Nhứt thiết chư đại nạn

Vô năng xâm thị nhân

Thiên thượng cập nhân gian

Thọ phước như Phật đẳng

Ngộ thử như ý châu

Định hoạch vô đẳng đẳng

 

Khể thủ quy y tô tất đế

Đầu diện đảnh lễ thất cu chi

Ngã kim xưng tán đại Chuẩn đề

Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.


 

NAM MÔ THẤT CU CHI PHẬT MẪU SỞ THUYẾT 

ĐẠI CHUẨN ĐỀ ĐÀ RA NI

 



NAM MÔ TÁT ĐA NẨM, TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ, CU CHI NẨM, ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA-BÀ HA. 


 (108 biến)



(Quỳ thẳng và tụng tiếp sau đây)

 

 

Ngã kim trì tụng đại Chuẩn đề

Tốc phát Bồ đề quảng đại nguyện

Nguyện ngã định huệ tốc viên minh

Nguyện ngã công đức giai thành tựu

Nguyện ngã thắng phước biến trang nghiêm

Nguyện cọng chúng sanh thành Phật đạo

Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp

Giai do vô thỉ tham, sân, si

Tùng thân khẩu ý chi sở sanh.

Nhứt thiết ngã kim giai sám hối

Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời

Tận trừ nhứt thiết chư chướng ngại

Diện kiến bỉ Phật A Di Đà

Tức đắc vãn sanh an lạc sát.

 

(đồng đứng dậy, xướng lạy ba lạy)

 

NAM MÔ ĐẠI THÁNH CHUẨN ĐỀ VƯƠNG BỒ TÁT MA HA TÁT 

(3 lạy)



ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA-BÀ HA. 


 


 

 ( Trì tụng đến KHI tương tục không gián đoạn, THÌ tấc cả vọng niệm không sanh khởi sẽ thấy LINH NGHIỆM hay QUÁN 9 chữ PHẠN hiện ra rõ ràng sẽ thấy LINH NGHIỆM )





HIỂN MẬT VIÊN THÔNG 

THÀNH PHẬT TÂM YẾU

 

Trần Giác soạn

Ngũ Đài Sơn, Kim Hà Tự, Sa Môn Đạo Chân tập

 

Tỷ khưu Thích Viên Đức dịch



LỜI NÓI ĐẦU

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT



Kính bạch: Quý vị thiện tri thức

Hơn mười năm qua, tôi y quyển HIỂN MẬT VIÊN THÔNG này, gắng theo phương pháp trong đây tu trì. Tôi nhận thấy có nhiều sự linh nghiệm kết quả. Để ứng dụng trong đời mạt pháp, và giúp chúng sanh nghèo hèn bạc phước muốn sở cầu như ý…, tôi mong không quên sự hèn kém của mình, đem tâm gắng dịch quyển sách này để ấn hành lưu thông. Nếu có vị nào nhờ sách này mà phát tâm tu quántrì chú, được thêm phần tín nguyện mà hành trì, thì tôi rất lấy làm mãn nguyện.

Tôi tự biết không tránh khỏi văn nghĩa vụng về thiếu sót, kính mong quý Ngài hoan hỷ tha thứ có chỗ nào sai lầm, giúp ý kiến cho lần tái bản sau được đầy đủ hơn.

 



Nam Mô Chuẩn Đề Vương Bồ Tát chứng minh.

CHÙA DƯỢC SƯ, Ban-mê-thuột,
Mùa Hạ - Phật Lịch 2515
Ngày Rằm, Tháng Bảy, Tân Hợi (4-9-1971)
Dịch giả cẩn bút
 
Tỳ Khưu THÍCH VIÊN ĐỨC




LỜI TỰA


CỦA SOẠN GIẢ


 
Xưa đức Như Lai là bậc tôn quý xuất thế trong đời, đem đạo pháp giáo hóa mọi người, xiển dương pháp Đại Thừa, dắt dẫn quần mê, mở bày ra muôn pháp. Phương pháp tuy nhiều, tùy lúc mà nói, nhưng mục đích vẫn chỉ làm thế nào để vào được biển viên mãn, cho nên chỗ trở về chỉ là Nhứt thừa (Phật thừa). Song, Hiển giáo Mật tông đều gồm thâu cả tánh tướng. Nghĩa lý Hiển giáo chia làm năm thời tóm lại gọi là Tô Đại Lãm (Kinh). Mật bộ bao gồm ba tạng, riêng gọi là Đà Ra Ni (Thần chú). Người đọc Hiển giáo cho rằng: Không, Hữu, Thiền, Luật trái nghịch nhau, mà không xét tận đến viên lý, cứu cánh. Còn người học Mật bộ, lấy Đàn, Ấn, Chữ, Tiếng làm phép tắc, nhưng chưa biết chỗ thần thông bí áo. Vội cho Hiển giáo Mật tông mâu thuẫn nhau, Tánh tông, Tướng tông lỗ tròn cán vuôn khó ăn khớp nhau. Vì thế sanh tâm chống trái, chê bai, hủy báng. Tóm lại chỉ thiên chấp một khía cạnh nào đó, mờ mịt tánh viên thôngNếu không phải là bậc Chí Trí, làm sao dung hội được các đầu mối sai khác, sự nghiệp có thành tựu, người mới hoằng dương được đạo. Nay vì Hiển Mật Viên Thông pháp sư, trong thời bấy giờ, người đời suy tôn Ngài là bậc anh ngộ, thiên tính của Ngài quá thông minh. Khi còn nhỏ tuổi, Ngài lễ lạy các bậc danh sư cầu học. Trải qua 15 năm học hỏi rất tịnh tường, nào là tham thiền hỏi đạohọc rộng nghe nhiều, về mặc nội điển Ngài tinh thông các tông Ngũ giáoNgoại điển, Ngài thấu suốt các vấn đề bí áo của trăm họ. Ái ố không giao xem, lợi danh chẳng màng đến. Đã thế mà Ngài lại nhàm chán chốn đô thành, lánh mình nơi hang núi.


Trải qua năm, tháng khổ hạnh, tận tụy đem hết chí lực nghiên cùng chỗ thâm huyền của đại tạng thâu nắm những yếu lý tinh ba thuộc lòng nơi tâm ý. Giải phẫu tất cả nghĩa lý rất rõ ràng như các chỉ trên bàn tay. Ngài xem khắp giáo lý Đại, Tiểu Thừa, không ra ngoài hai đường: Hiển Mật, cũng cùng một mục đích là chứng Thánh vị, nhập vào được Diệu đạo Chơn như 

Xét nơi văn thể thời có khác, nhưng đó cũng chỉ là sự vuông tròn hơn kém của mâm bát, còn chỗ trở về nơi chánh lý thời đồng nhau. Như cái đồ để trong nhà đều gồm thâu cả không, hữu. Thế mà người học lại vọng sanh dị nghị, mời mịt không biết chỗ thông dung. Nhơn đó thâu góp biên thành tập sách tâm yếu này, văn thành một quyển, lý tận vạn đường. Hội Tứ giáo tổng quy về viên thông, thâu Ngũ mật bộ gồm thành một bộ. Hoà nhũ tô thành đề hồ. Thâu góp tinh ba, mây ráng làm thành cam lồ vị. Thật lạ chỗ hội yếu của chư Phật. Đáng là kim chỉ nam cho người đời sau. Khiến ai xem vào đây như gặp được ngọc minh châu như ý, chỗ sở cầu đều toại nguyệnMong mỏi các người nương theo đây mà thực hành như ăn trái thiện khiến, không có gì không lành.

Trần Giác này nghĩ hổ thẹn sự học hỏi còn sơ sài, lời văn không hoa lệ. Nhân gặp một ngày, tôi được đến thăm thầy tôi, may mắn được nghe lời dạy dỗ như qua thủ phất trầnthoạt tiên tôi mở mang được kiến thức hẹp hòi. Thầy dặn dò tôi: Nên đem truyền lại cho người đời. Tôi vội soạn ra quyển văn này, vẫn hổ thẹn với khả năng diễn đạt lý mầu, nhưng cũng lấy làm lời nói đầu.



 Tỳ Khưu Thích Viên Đức dịch



I.- HIỂN GIÁO TÂM YẾU



Nguyên một đời giáo hóa của đức Như Lai, văn ngôn rộng rãi, giáo lý sâu xa, Hiển Mật đều thâu tận hết thảy. 

HIỂN: nghĩa là các thừa Kinh, Luật, Luận. 

MẬT: nghĩa là các bộ Đà ra ni (Thần chú) 

Kể từ khi Ngài Ma Đằng truyền đạo vào đời Hán, ba Tạng lần lần lan khắp xứ Trung Hoa. Ngài Vô Úy truyền đạo vào đời Đường, ngũ mật ở Trung Hoa mới bắt đầu hưng thịnh, chín phái đồng quy ngưỡng, bảy chúng đều tuân hành; lời nói pháp không thị phi. Con người phân chia ra đường tu chứng, trải qua nhiều năm bị phai mờ, sự hiểu lầm không phải là ít. Hoặc có người học tập Hiển giáo, khinh chê Mật bộ, hoặc có kẻ chuyên Mật ngôn, mờ mịt lý thú của Hiển giáo, hoặc chăm học danh tướng, chưa biết được ngõ vào đạo; hoặc học chữ, tiếng, ít biết quy tắc trì minh, khiến cho quán hạnh thậm thâm, biến thành danh ngôn. Hiển Mật thần tông trở thành âm vận. 

Nay tôi không so chút tài mọn, quyết nương vào hai tông: Hiển Mật lược bày tâm yếu thành Phật. Ngõ hầu hy vọng tương lai mọi người được viên thông, nên nương vào giáo lý lược bày bốn môn: 

1. Hiển giáo Tâm yếu 
2. Mật giáo Tâm yếu 
3. Hiển Mật song biện 
4. May mắn gặp gỡ pháp môn vô giá này, hết lòng vui mừng. 

(Trong bốn đoạn dưới đây, vì tránh văn nghĩa phiền phức, hoặc ám dụng Thánh giáo, hoặc dẫn nghĩa kinh văn, người xem nên biết.) 

Đầu tiên nói về Hiển giáo tâm yếu, Ngài Hiền Phủ, Ngài Thanh Lương đều chia sự giáo hóa một đời của Đức Phật ra làm năm thời: 

1) Tiểu Thừa giáo: A Hàm v.v…gồm có 600 quyển Kinh, Bà Sa v.v… hơn 600 quyển Luận. 

Nói tất cả pháp từ nhơn duyên sinh, chỉ rõ ba cõi không an cũng như nhà lửa, thấu rõ chơn lý nhơn không, tu hành tự lợi, sung sướng được chứng quả Tiểu Thừa. 

2) Đại Thừa Thỉ giáo: có hai: 

a) Pháp Tướng Tôn: Gồm có Thâm Mật, Phật Địa Kinh v.v… có đến hàng mười bộ kinh. Du Già, Duy Thức v.v… có đến hàng trăm quyển Luận, nói tất cả pháp đều do Duy Thức, chỉ rõ chơn lý Nhị Không, tu Lục độ Vạn hạnh, thẳng đến Đại Thừa Phật quả. Trong đó phần nhiều nói đến Pháp Tướng mà thôi. 

b) Vô Tướng Tôn: gồm có Bát nhã v.v… hơn một ngàn quyển kinh. Trung Luận. Bách Môn Luận v.v… các bổn luận văn đó nói tất cả các pháp bản lai là không. Vô thỉ mê tình vọng nhận là có. Muốn chứng đạo Bồ đề lấy đó làm sở đắc để tu tập vạn hạnh. Trong đây phần nhiều nói nghĩa Không, Vô Tướng. Hai tông này đều là sơ môn của Đại Thừa cho nên gọi là Thỉ, nghĩa là ban đầu vậy. 

3) Nhứt thừa Chung giáo: Pháp Hoa, Niết Bàn v.v… hơn bốn mươi bộ Kinh. Bảo Tánh, Phật Tánh v.v… hơn mười bộ Luận nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Từ xưa đến nay sáng suốt không mờ, tỏ rõ thường biết, nhưng vì vô thỉ mê vọng, điên đảo không tự giác ngộ. Muốn chứng Phật quả, trước hết phải tỏ ngộ Phật tánh của chính mình đã có, sau mới đem tánh ấy tu tập: Bổn Hữu Vô Lượng Diệu Hạnh. Ở đây hành toàn nói về Pháp tánh, là tận lý của giáo pháp Đại Thừa cho nên gọi là Chung. Chung nghĩa là hết vậy. 

4) Nhứt thừa Đốn giáo: Gồm có Lăng Già, Tư Ích, Kinh văn. Ngài Đạt Ma đã truyền thiền tông, nói tất cả vọng tưởng bổn không, chơn tâm bổn tịnh, nguyên không có phiền não vốn là bồ đề, chỉ nói Chơn tánh không nương cấp bực mà thành Phật, cho nên gọi là Đốn. 

5) Bất Tư Nghì thừa Viên giáo: Gồm có Hoa Nghiêm nhứt Kinh, Thập Địa nhứt Luận, hoàn toàn nói: Tỳ Lô Pháp Giới, Phổ Hiền Hạnh Hải. Trong đó đều có hoặc Sự, hoặc Lý, hoặc Nhơn, hoặc Quả. Một mà đầy đủ tất cả trùng trùng vô tận. Tổng hàm các pháp, không một pháp nào mà không thu nhiếp. Xứng tánh tự tại, không chướng, không ngại xa hẳn các thiên thuyết nên gọi là Viên. Năm thời giáo này, trước tiên là hẹp hòi, là quyền dụ, sau cùng là thâm mầu, là chơn thật. Nếu lấy Viên giáo mà so sánh, bốn thời giáo trước đều tạm quyền mà nói ra vậy. 

(Nay căn cứ vào lý tương đối mà Luận, bốn thời trước là quyền, Viên giáo là thật. Nếu định chấp Viên giáo là thật, thì sẽ thiếu khuyết bốn thời trước, như thế không phải là kẻ thông suốt Viên giáo đầy đủ. Nếu năm thời giáo đều truyền bá, thì Thiên Viên cùng tán thán, hiệp được mọi căn cơ mới đầu đủ. Như trong Viên giáo dưới đây, đều bao gồm đầy đủ các giáo lý pháp môn trước, cho nên không tách riêng ra mà nói.) 

Nay nương theo Viên giáo tu hành, lược chia làm hai phần. Ban đầu ngộ Tỳ Lô pháp giới, sau tu Phổ Hiền hạnh hải. Ban đầu ngộ Tỳ Lô pháp giới nghĩa là trong kinh Hoa Nghiêm đã nói: Nhứt chơn vô chướng ngại pháp giới, hoặc là nhứt tâm, ở trong đó đầy đủ ba thế gian: 

1) Khí Thế Gian: là nói tất cả quốc độ. 
2) Chúng Thế Gian: là nói tất cả hữu tình 
3) Trí Chánh Giác Thế Gian: là nói tất cả Thánh Nhơn. 

Bốn Pháp Giới: 

1) Sự Pháp Giới. 
2) Lý Pháp Giới. 
3) Sự Lý Vô Ngại Pháp Giới. 
4) Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới. 

Tất cả các pháp nhiễm tịnh, chưa có một pháp nào ra ngoài pháp giới này. Đây là chơn tâm căn bản của tất cả phàm phu, Thánh nhơn. Cũng là chơn thân căn bản. 

Nói rộng Chơn Tâm có hai: 

1) Đồng Giáo Chơn Tâm 
2) Biệt Giáo Chơn Tâm. 

Đồng Giáo lại có hai: 

1) Chung Giáo Chơn Tâm. 
2) Đốn Giáo Chơn Tâm. 

Trước hết nói về Chung Giáo Chơn Tâm: Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng: “Phải biết hư không sinh ra trong tâm của ông, cũng như một đám mây điểm giữa bầu trời xanh, huống là các thế giới ở trong hư không ư?”

(Chơn tâm của ta, cũng như bầu trời trong xanh. Mười phương hư không dường như một đám mây, tức biết chơn tâm rất lớn, hư không rất nhỏ. Hư không so với Chơn tâm cũng còn rất nhỏ, huống các thế giới ở trong hư không vậy ư? )

Lại nói rằng: “Hư không sanh trong đại giác, cũng như bọt nước sanh trong biển lớn. Vi trần quốc độ hữu lậu, đều y hư không mà sinh”. Đại Giác tức là tên khác của Chơn tâm, Chơn tâm rất rộng lớn, cũng như đại hải. Hư không rất nhỏ, in tuồng một bọt nước. Huống các quốc độ, đều y hư không mà sinh. Nếu so với Chơn tâm, tức là nhỏ ở trong cái nhỏ. 

Lại nữa, Chơn tâm biến khắp và viên mãn, bao gồm cả mười phương. Quán sát lại thân cha mẹ sinh ra, giống như trong mười phương hư không kia mà đem thổi một vi trần, thoạt còn, thoạt mất. Lại rằng: 

(Không biết sắc thân, cho đến sơn hà đại địa, hư không đều là vật ở trong Diệu minh Chơn tâm.) 

Lại rằng: “Tất cả các vật có trong thế gian đều là Bồ đề Diệu minh Chơn tâm.” 

(Đã nói: Tức là Bồ đề Diệu minh Chơn tâm, không phải các pháp thế gian mà ở trong Chơn tâm riêng có tự thể. Tức biết hết thảy pháp giới, hư không, đại địa, hữu tình, vô tình, toàn là một vị Diệu minh Chơn tâm vắng lặng, thanh tịnh, không thêm, không bớt.). 

Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến giờ, mê ngất Chơn tâm; vọng nhận tứ đại làm thân, duyên lự làm tâm. Thí như trăm nghìn biển lớn trong lặng không nhận, chỉ nhận một bọt nước nhỏ. Nếu rõ thân tứ đại, tâm duyên lự, duyên sinh không tánh, toàn là nước biển. 

Gần đây có kẻ Nho sinh ít xem kinh Phật, nghe nói Chơn tâm rất rộng lớn, mờ mịt chưa tin. 

Tôi xin nói thêm rằng: Đây chính là đức Như Lai dạy: Chỉ có tự tâm mê muội, điên đảo không thấy, đâu có thể tin là không có được. Như sách Trang Tử ở thế tục còn nói rằng: Ở biển Bắc Minh có con cá, tên nó là Côn, cá Côn lớn không biết bao nhiêu nghìn dặm; hóa làm con chim gọi là chim Bàng, lưng loại chim này dài không biết bao nhiêu nghìn dặm. Lúc giận, nó bay lên và đôi cánh che phủ như mây trời. Bay đến biển Nam Minh, nó đập nước tung lên ba nghìn dặm, nổi sóng gió động đến chín vạn dặm. Ông Liệt Tử nói rằng: Đời đâu biết có con vật như thế đó ư? Ông Đại Võ đi đường xem thấy, ông Bá Ích biết mà đặt tên, ông Di Kiên nghe mà để ý. Không nên cho rằng mắt mình không thấy vật đó, rồi không tin là có. Sách thế tục còn nói: Có tướng vật kỳ lạ, huống nữa đức Như Lai đã nói Vô tướng Chơn tâm vậy ư? 

Luận Bảo Tánh nói rằng: Người ở trong vỏ trứng làm sao thấy suốt được vũ trụ bao la? Câu nói đó thật là đúng! 

Sau đây nói về Đốn Giáo Chơn tâm, nghĩa là tâm tuyệt đãi đầy đủ thanh tịnh, trong đó không dung nạp một cái gì khác, tất cả vọng tưởng bản lai là không, tuyệt đãi Chơn tâm bản lai thanh tịnh. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: Pháp tánh bổn không tịch, không thủ cũng không kiến; tánh không tức là Phật, không thể nghĩ lường được.” Luận Khởi Tín nói rằng: “Tất cả các pháp từ vô thỉ đến nay, xa lìa tướng nói năng, xa lìa tướng danh tự, xa lìa tướng tâm duyên, rốt ráo là bình đẳng; không có thay đổi biến dị, không thể phá hoại; chỉ là nhất tâm cho nên gọi là Chơn như.” Về phần Chung giáo ở trước, tùy theo mê muội của chúng sanh, nói có sắc thân, sơn hà, hư không, đại địa, thế gian các pháp. Khiến các chúng sanh đổi vọng về chơn. Rõ thấu sắc thân, sơn hà, hư không, đại địa, thế gian các pháp, toàn là một vị Diệu minh Chơn tâm. 

Nay trong Đốn giáo, vốn không có sắc thân, sơn hà, hư không, đại địa, thế gian các pháp. Vốn là một vị tuyệt đãi Chơn tâm. Cho nên Ngài Thanh Lương nói rằng: Tóm lại không nói Pháp Tướng, chỉ biện rõ chơn tánh, tức biết rõ châu biến pháp giới, vốn là một vị tuyệt đãi Chơn tâm, vắng lặng thanh tịnh, không sanh diệt, tăng giảm.” Muốn hiểu rõ sự châu biến của pháp giới, hãy ví dụ nó giống như một viên ngọc tròn sáng, tỏ rõ, thanh tịnh, không hình không ảnh, không trong, không ngoài. Ngài Thanh Lương nói rằng: “Thể tịch chiếu diệu độc lập, vật ngã nhứt như.” 

Ngài Đại Ma nói: “Pháp của ta lấy tâm truyền tâm, không lập văn tự!” tức là truyền tâm này vậy. Ngài Tào Khê nói: “Gương sáng vốn thanh tịnh, cần gì phải lau chùi bụi trần ư?”, cũng là tâm này vậy. Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, không rõ tâm này, vọng thấy các tướng cũng như con mắt bịnh, thoạt thấy hoa đốm giữa hư không. Kinh Viên Giác nói: “Vọng nhận tứ đại làm tự Thân tướng. Bóng dáng của lục trần là tự Tâm tướng”. Cũng như con mắt bịnh kia thấy hoa đốm giữa hư không. “Nếu rõ Chơn tâm, vốn không có các tướng, như trong hư không vốn không có các hoa đốm.” Kinh Viên Giác nói: “Như Lai nhơn địa tu Viên Giác. Biết được không hoa đốm tức không còn lưu chuyển, cũng không có thân tâm chịu sanh tử. Không tạo tác cho nên là Không, vì bản tánh là Không.” Nay trong Đốn giáo dụ như không hoa đốm rất là thiết yếu. Ngày nay, người xuất gia học Thiền rất rộng, nhưng đến khi nghe khai thị tâm này, phần nhiều không nhập thần được. Như có ông Diệp Công ưa thích loài rồng, nhưng lúc có con rồng thật hiện ra trước mắt, ông ta mặc nhiên không đoái hoài đến. Nếu chưa ngộ tâm này, không gọi là bậc Chơn thiền định. Như vậy, muốn tu hạnh tham thiền, trước hết phải tỏ ngộ nhất tâm này. 

BIỆT GIÁO CHƠN TÂM: Nhứt chơn vô chướng ngại đại pháp giới tâm, bao hàm ba thế gian, đầy đủ bốn pháp giới, bao gồm cả đây, cả kia mà không chướng ngại. Tức biết pháp giới bao la, trùm chứa mười phương, toàn là nhứt chon đại pháp giới tâm. Ở trong nhứt chơn đại pháp giới này đã có: Phàm, Thánh, hoặc Lý, hoặc Sự. Tùy theo đó nêu một pháp, cũng đều toàn là đại pháp giới tâm. 

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hoa Tạng thế giới đã có trần; trong mỗi một trần thấy pháp giới, lại một trần đã là đại pháp giới tâm. Ở trong một trần đại pháp giới này, lại nêu một trần, cũng toàn là đại pháp giới tâm. Hoặc thời gian hoặc không gian trùng trùng nêu cử, trùng trùng đều là đại pháp giới tâm.” Cho nên Ngài Thanh Lương trong Hoa Nghiêm Thập địa phẩm sớ đã nói: “Đế võng vô tận nhứt tâm vậy”. Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay mê vọng, không biết vô tận pháp giới là tự thân tâm. Ở trong đó vốn đầy đủ vô tận sắc tâm công đức, tức cùng với Tỳ Lô Giá Na, thân tâm bình đẳng. Bỏ mất thân tâm Phật, vô chướng, vô ngại của chính mình, điên đảo chấp làm tạp nhiễm chúng sanh. Thí như Kim Luân Thánh Vương thống trị tứ thiên hạ, thân trí đầy đủ, giàu vui không ai sánh bằng. Thoạt tiên ngủ mê, mộng thấy làm thân con kiến, ở trong mộng chỉ nhận thân mình là kiến, không biết mình là Luân Vương. 

(Vô tận pháp giới của Phật, đời khó thấu được, nay chỉ dụ nghĩa: Mê chơn, chấp vọng, người trí phải nên biết.) 

Vậy muốn cầu thành tựu cứu cánh Phật quả cần phải ngộ Tỳ Lô pháp giới, nếu chưa ngộ pháp giới này, dù trải qua nhiều kiếp tu tập vạn hạnh, cũng uổng công nhọc xác, không được gọi là Chơn thật Bồ Tát. Cũng không thể sinh trong nhà của đức Như Lai. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Không rõ nơ tự tâm, làm sao biết Thánh đạo, trí huệ bị điên đảo, do đó tăng trưởng tất cả sự ác. Ngài Thanh Lương nói: “Không nương sự ngộ này, việc làm không chơn chánh, sự tu hành của mình sẽ ràng buộc thành nghiệp.” Vô tận pháp giới nhứt tâm này, người ít hay biết, biết cũng ít tin, tin cũng ít hiểu, hiểu cũng khó đạt đến cảnh giới đó. Vì vậy Bồ Tát nhiều kiếp không tin, không hiểu. Thượng thủ Thanh Văn như đui, điếc. Nếu là người có túc căn viên mãn, nên chú ý ở đây, ai dốc lòng tri ngộ, đương nhiên ngày nay sanh vào nhà của Phật. 

Sợ người khó tin, tôi xin kể câu chuyện trong Pháp Uyển Châu Lâm: “Có một người ảo thuật, đi đường thấy một kẻ gánh một gánh, trên có cái lồng có thể chứa được vài thùng. Người ấy bảo kẻ gánh rằng: Tôi đi bộ mệt mỏi quá, muốn chun vô lồng của ông để nghỉ chân, mong ông vui lòng cho tôi được như ý. Người gánh bèn suy nghĩ cho đó là kẻ khùng, bèn nói: Ông thử vào xem. Người kia bèn nhảy vô lồng một cách nhẹ nhàng. Tuy lồng chẳng lớn mấy mà người ảo thuật cũng không phải là nhỏ. Người gánh đi mãi vẫn không thấy nặng. Đi được vài mươi dặm đường, ông ta đặt gánh bên gốc cây và ăn uống, bèn mời người ảo thuật cùng ăn. Người ảo thuật nói rằng: Tôi cũng có đầy đủ thức ăn. Người gánh nhìn vào lồng thấy các vật dụng chứa đầy đồ ăn uống, bèn mời người ảo thuật cùng ăn. Người ảo thuật bảo người gánh rằng: Tôi muốn cùng ăn với vợ tôi. Nói xong, y hả miệng nhả ra một người con gái dung mạo đẹp đẽ và hai người cùng ăn uống. Ăn xong, người chồng ngủ, còn cô vợ bảo người gánh rằng: Tôi có một tình nhân muốn đến dùng bữa với tôi. Khi chồng tôi thức dậy, ông chớ nên nói lại việc này. Cô gái liền há miệng nhả ra một tình nhân rồi cùng ăn uống. Cả ba người đều ở trong lồng vẫn không thấy chật hẹp. Lát sau, người ảo thuật cựa mình sắp thức dậy, anh tình nhân bảo người gánh: Chào ông, tôi đi! Cô gái liền bỏ tình nhân vào miệng và đồ ăn uống cũng cất hết trong mồm. Rồi lúc đó người ảo thuật thức giấc cũng đem vợ bỏ vào miệng.” Đó là truyện tiểu thuyết của thế gian, trùng trùng dung nhan như thế, mà không bị chướng ngại pháp giới ư? 

Vậy cần phải suy xét cho chín chắn mà tin, suy nghĩ để thấu hiểu. Chớ nên cao suy Thánh cảnh, luống dối một đời không lợi ích. 

TU PHỔ HIỀN HẠNH HẢI: Đã ngộ được vô chướng ngại pháp giới vốn tự tâm ta, trong đó vốn đầy đủ mười Hoa Tạng thế giới vi trần số tướng hảo, đế võng, vô tận thần thông công đức. Cũng mười phương chư Phật không sai khác; ngặt vì vô thỉ, vọng tình chấp chặt, tập dĩ tánh thành, cuối cùng khó đoạn dứt. Để khiến cho thần thông công đức của chính ta không thể thọ dụng một cách tự tại. Cho nên cần phải xứng với Tỳ Lô pháp giới của chính mình, tu tập bản hữu Phổ Hiền Hạnh Hải, làm cho vô tận công dụng mau được hiện tiền. 

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tu pháp này ít làm công lực, mau chứng Bồ đề. Tuy Phổ Hiền Hạnh Hải rộng bao la không bờ bến.” (Tất cả hạnh môn trong Tạng giáo đã nói đều là Hoa Nghiêm Phổ Hiền Hạnh, chỉ ứng căn cơ thiển cận mà quyền chỉ, nên nêu ra đây một ít mà thôi.) 

Nay nói Quán Hạnh Pháp Lược có năm môn: 

1) Quán Chư Pháp như mộng huyễn. 
2) Quán Chơn Như tuyệt tướng, 
3) Quán Sự, Lý vô ngại. 
4) Quán Đế Võng vô tận. 
5) Quán Vô Chướng ngại pháp giới. 

Trước hết: 1) Quán các pháp như mộng huyễn: (Tức đương sự pháp giới quán) nghĩa là thường quán các pháp nhiễm, tịnh, tất cả không thật, đều như mộng huyễn. Kinh Hoa Nghiêm nói: “ Cũng như trong chiêm bao, thấy các hình tướng sai khác; thế gian cũng như vậy, như mộng không khác.” Lại nói: “Độ thoát tất cả chúng sanh phải biết các pháp đều như huyễn; chúng sanh không khác huyễn, hết huyễn không còn chúng sanh.” Và kinh Kim Cang có dạy: “Tất cả các pháp hữu vi như chiêm bao, bọt nổi, như sương mù, điện chớp, thường quán xét như vậy.” Ngài Triệu Công nói: “Hư vậy, Vọng vậy, ba cõi không thật; Mộng vậy, Huyễn vậy, sáu đường không vật.” Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, chấp tất cả pháp cho là có thật, khiến khởi hoặc tạo nghiệp, tuần hoàn trong sáu đường. Toàn thể không thật, đều như mộng huyễn thì ái ố tự nhiên tiêu diệt, lòng bi trí tự nhiên tăng trưởng, sáng suốt. Quán mộng huyễn trong Viên Giác Sớ gọi là: “Khởi Huyễn tiêu trần quá. Trong Thiên Thai gọi là Giả quán, cũng còn gọi là “Phương tiện tùy duyên chỉ”. Phân minh, soi chiếu, gọi là Quán, vắng lặng không loạn động gọi là Chỉ. Tức là trong Quán có chỉ, trong chỉ có quán mới là chỉ quán song vận, các phép chỉ quán khác nương theo đây mà rõ. Hoặc có người tuy tin hiểu Viên giáo mà phiền não nặng nề, không thể tu tập quán mộng huyễn được nên tu quán bất tịnh. Nghĩa là quán sát thân này có năm món không sạch.

a)Chủng tử bất tịnh: Nghĩa là tinh cha, huyết mẹ, hai chất trắng đỏ hòa hợp mà thành. Trí Độ Luận nói: “Thân là giống không sạch, không phải các vật nhiệm mầu, quý báu, không do chất trong sạch sinh ra, mà sinh ra từ nơi dơ uế.” 

b)Trụ xứ bất tịnh: Là ở trong bụng mẹ, dưới sanh tạng, trên thục tạng chảy ra chất không sạch, ô uế đầy dẫy, mà lại ở ngay trong đó. Lại như Hải Sơn nói: Đồ không sạch mà đem làm áo trang sức, còn thứ ô uế thì lấy làm vật ăn uống. 

c)Tự thể bất tịnh: Gồm có ba mươi sáu vật, đều cùng hòa hợp không sạch. Nói ba mươi sáu là: bên ngoài có mười hai phần: Tóc, lông, móng, răng, mồ hôi, đại, tiểu, ghèn, mũi, đàm, dãi, nước miếng. Lại có mười hai phần: Da, da ngoài, huyết, nhục, mỡ, đầu, óc, màng mỏng, xương, tủy, gân, mạch. Bên trong gồm có mười hai: Tim, gan, mật, phổi, lá lách, thận, ruột, dạ dày, sanh tạng, thục tạng, đàm đỏ, đàm trắng. Tức là từ đầu đến chân đều không sạch. Ngài Vĩnh Gia dạy: “Cái đãy đầy phân nhơ là chỗ chứa tụ máu mủ; chảy ra những chất không sạch, là chỗ ở của vi trùng giòi giun, quán cá ươn, hầm tiêu, cũng không sánh kịp.” 

d)Tự tướng bất tịnh: Là chín chỗ (cửu khiếu) thường chảy ra các chất dơ nhớp. Cửu khiếu: là hai tai xuất ra chất dơ; hai mắt chảy ghèn và nước; hai lỗ mũi chảy ra nước mũi; miệng chảy ra đàm dãi; đường đại tiện ra phân dơ; tiểu tiện chảy ra nước khai hôi. Trí Độ Luận nói: “Các vật không sạch chứa đầy trong thân, thường chảy ra các thứ không sạch như cái đãy rách đựng đồ vật dơ.” 

e)Cứu cánh bất tịnh: Nghĩa là khi thân hoại mạng chung, sình to, hôi thúi, máu mủ nứt rã, không dám lại gần. Ngài Thiên Thai nói rằng: “Từ chân đến đầu, từ đầu đến chân, tuần tự quán sát, chỉ thấy sình lớn, nứt rã, trong đường đại, tiểu tiện giòi trùng theo máu mủ bò ra, thúi hơn con chó chết.” Kinh Tâm Địa Quán dạy: “Nên quán sát tự thân mình hôi thúi, không trong sạch, cũng như chó chết”. Kinh Kim Quang Minh nói rằng: “Ta từ lâu hầu hạ thân hôi thúi này, máu mủ chảy ra không thể thương mến được. Tuy thường cung cấp nuôi dưỡng, nó vẫn ôm sự oán hại. Cuối cùng bỏ ta, nó chẳng biết ơn. Quán sát tự thân mình xong, lại quán sát thân kẻ khác hoặc nam hoặc nữ, đã có thân thì có đủ năm món bất tịnh.” Cho nên Luận Khởi Tín nói rằng: “Nên quán tất cả những thân có trong thế gian đều là bất tịnh.” Các món dơ uế không có một cái gì đáng thương. Đã quán sát đều là bất tịnh, tâm tham ái tự nhiên không khởi. Kinh A Hàm nói rằng: “Xưa có một vị quốc vương đắm mê sắc dục không nhàm chán. Có vị Tỳ Kheo lấy một bài kệ can gián rằng: 

- Mắt là một cái hang chứa ghèn, lệ, 
- Mũi là cái đãy dơ chứa mũi, dãi. 
- Miệng là đồ đựng đàm dãi. 
- Bụng là kho chứa phẩn niếu. 

Chỉ có vua không có mắt huệ, bị sắc dục làm mờ mịt. Bần đạo thấy gớm, cho nên xuất gia đi tu đạo tràng.” Ngài Thiên Thai dạy rằng: “Tuy quán sát bất tịnh mà hay thành đại sự. Như thây chết trong biển, nương nơi đó mà vào bờ. 

Hoặc là quán bộ xương trắng: Trước hết quán tưởng cái thân của mình da thịt nát rã, chỉ thấy xương trắng lần lần từ hẹp đến rộng. Tưởng nơi một cái đầu da thịt rã rời, chỉ thấy xương trắng cho đến toàn thân đều là xương trắng. Đã quán thân mình đầy đủ một bộ xương trắng phân minh hiện rõ, rồi lại quán người khác rã rời cũng vậy. Lần lượt quán hết một cái phòng, một ngôi chùa, một thành lũy, một quốc gia cho đến khắp đất đai, lấy biển làm biên giới, sẽ thấy đầy những bộ xương trắng. Muốn cho quán tâm tăng trưởng, lại quán lần lượt từ rộng đến hẹp. Quán một quốc độ là một bộ xương. Lần lần sẽ thấy một thành, một chùa, một phòng, một bộ xương đầy đủ. Rồi quán bộ xương đó cho tới lúc chỉ thấy một chút xương trắng ở giữa chặn mày. Thấy giữa chặn mày rồi chuyên chú một chỗ vắng lặng mà an trụ, như vậy tu tập cho đến khi đắc định. Quán này thành tựu thì tất cả tham ái tự nhiên tiêu diệt. 

Hoặc Quán Sổ Tức: Nên từ cạn đến sâu, lần lượt tiến tu. Trước hết phải tự mình điều hòa hơi thở, không rít, không nghẹt. Nhứt tâm chuyên chú đếm hơi thở ra vào. Trước hết, đếm hơi hít vào, sau đếm hơi thở ra, từ một đến mười, xong rồi đếm lại thế mãi, tâm tưởng nơi đếm, đừng cho tán loạn. Nếu thấy, không cần cố sức mà đếm dễ dàng từ một đến mười trong hơi thở; lúc đó lại nhứt tâm theo hơi thở ra vào. Khi hít vào, tâm cũng theo hơi vào, từ mũi đến yết hầu, từ yết hầu đến tim, đến rú, đến đơn điền, bắp vế, ống chân cho đến bàn chân, ngón chân. Khi hơi thở ra, tâm cũng theo hơi thở ra. Hơi thở ra xa ngoài thân cho đến một gan, một tầm. Nhứt tâm theo dõi hơi thở ra vào; nếu thấy tâm và hơi thở nương nhau dễ dàng, bây giờ nên buộc niệm, đình chỉ tại giữa chặn mày, hoặc ở nơi đầu mũi, dừng tâm tại đó, quán hơi thở an trụ nơi thân, như sợi chỉ xâu hạt châu, hoặc lạnh hoặc ấm, hoặc thêm hoặc bớt. Nếu thấy, thân vắng lặng khoái lạc, an vui, rồi lại quán sát hơi thở nhẹ nhàng, vi tế. Lại quán tâm thức sát na không trụ. Như vậy tu tập, cảm giác biết hơi thở ra, vào, khắp lỗ chân lông. Tâm nhãn khai minh, thấy sáng suốt trong thân ba mươi sáu vật và các trùng bọ, lúc bấy giờ đã đắc định; rồi lại chăm tu các hạnh môn khác. Ở đây, vì sợ phiền phức nên tạm chấm dứt. 

Như trong kinh nói: Quán hơi thở ra, vào là bước đầu vào đạo của chư Phật ba đời vậy. 

Hoặc Quán Ngã Không: Nên cần phải để ý suy tìm, thân này bản lai vốn không có Ta (vô ngã)

Chỉ là sắc tâm, hai pháp hòa hợp mà thành. Sắc có bốn loại: đất, nước, gió, lửa. Nghĩa là cấu sắc: Lông, tóc, móng, răng, da, thịt, gân, cốt, tủy, não, đều là đất. Mũi, đàm dãi, máu mủ, nước miếng, nước bọt, tinh khí, đại, tiểu tiện đều là nước. Hơi nóng là lửa. Sự động chuyển “hô hấp” là gió. Tâm có bốn loại: thọ, tưởng, hành, thức. Thọ nghĩa là lãnh nạp; giữ lấy hình tượng bóng dáng, đó là Tưởng; tạo tác là Hành; rõ biết, phân biệt là Thức. 

Ở trong tám loại này, cái nào là Ta? Nếu đều là Ta thì có tám cái Ta. Hơn nữa ở trong thân thể đã có ba trăm sáu chục đoạn xương, mỗi đoạn đều riêng. Da, lông, gân, thịt, gan, tim, phổi, thận, mỗi cái không giống nhau. Thấy không phải là nghe. Vui không phải là giận. Đã có nhiều vật như thế, không biết định lấy cái nào để làm Ta. Nếu đều là Ta cả, thì sẽ có cả trăm ngàn cái Ta. Trong một thân sanh nhiều phân đoạn. Xa lìa nó, sẽ không có pháp riêng khác, tìm tòi kỹ lưỡng cái Ta, cũng không thấy đâu cả. Đã biết thân này là do duyên giả hợp với nhau. Bản lai không có Ta. Hành giả ngày đêm thường tu phép quán rất nhiệm mầu này. Bởi vì tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, chấp thân này là Ta; do đó mà quý trọng nó, tham cầu danh lợi, muốn đem vinh quang lợi ích cái Ta. Tức giận cảnh nghịch vì sợ nó xâm phạm đến Ta. Tâm tình ngu si, đã so sánh một cách trái lý. Nay đã thường quán thân này: Bản lai không có Ta, tức tam độc tự diệt, tam độc diệt rồi, ba cõi tự xa lìa vậy. 

Hoặc Quán Pháp Không: Nên cần quán xét hai pháp sắc tâm của thân này: Sắc có: Địa, thủy, hỏa, phong. Tâm có: Thọ, tưởng, hành, thức. Nơi tám pháp này mỗi pháp quán xét đều do duyên sanh, không có tự tánh. Thể của tám pháp là không. Sơ tâm của hành giả nên tu quán môn này. Tùy nơi tâm tam ưa thích một, hoặc hai, cho đến năm pháp quán đều được tu tập. Tâm quán pháp môn chỉ quý ở sự tu luyện, luyện mới có giá trị, nói suông chẳng lợi ích chi.

2) Chơn Như Tuyệt Tướng Quán: (Tức đương lý pháp giới quán) ở trong an tâm lại có ba môn: 

a)Thường quán toàn thể pháp giới, chỉ là một vị thanh tịnh chơn như. Vốn không có sự tướng sai khác. Trí năng quán này cũng là một vị chơn như. Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Tất cả các pháp vô sanh; tất cả các pháp vô diệt. Nếu hiểu như vậy, các Phật thường hiện tiền”. Thất Tổ thiền sư lại nói rằng: “Niệm vô niệm, tức là niệm chơn như”. Đức Lục Tổ giải thích vô niệm rằng: “Không, là không có các tướng; niệm, là niệm chơn như”, đây mới tưởng niệm các pháp toàn là chơn như. Nhưng tưởng niệm vốn là tướng của vô tưởng niệm; cho nên Luận Khởi Tín nói rằng: “Tuy niệm không có cái năng niệm, để mà niệm.” (Sở tưởng chơn như ở đây tức là tuyệt đãi Chơn tâm trong Đốn giáo đã nói trước. Hạnh môn này thường tưởng tất cả pháp, chỉ là một vị thanh tịnh chơn như, vốn không sanh diệt. Đó gọi là Chơn như tam muội, cũng gọi là Nhất hạnh tam muội, hay là Vô sanh tam muội.) 

b)Nếu tu niệm khởi, chỉ khởi giác tâm. Cho nên Ngài thất tổ nói rằng: “Khi niệm khởi liền biết, biết tức liền không; tu hạnh diệu môn chỉ ở nơi đây; tức là giác tâm này, gọi là quán. Đây cũng tuy khởi giác tâm, vốn không có tướng khởi giác.” (Hạnh môn này, trong tất cả thời, nếu khởi tâm niệm, chỉ khởi giác tâm. Đây chính là tu hạnh yếu môn nhiệm mầu vậy). 

c)Xét tâm là sai, động niệm liền trái, chỉ để tâm mà không ký thác vào, lý huyền diệu này sẽ tự lãnh hội. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Pháp tánh vốn không tịch, không thủ cũng không kiến. Tánh không tức là Phật, chẳng thể suy lường được.” Cổ đức nói rằng: “Thật tướng xa lìa nói và nghĩ; chơn như vượt lên trên thấy và nghe. Đây là chỗ an tâm; học sự khác sẽ uổng công…” Ở đây cứ theo bổn tánh tự chiếu, chứ không khởi sanh huệ giải mới mẻ nào. Cho nên kinh Viên Giác dạy rằng: “Chỉ cần các Bồ Tát và mạt thế chúng sanh ở tất cả thời không vọng niệm; nơi các vọng tâm cũng không dứt bỏ. An trụ ở cảnh vọng tưởng, không thêm liễu. Ở nơi không liễu trí, không biện chơn thật”. Ngài Hiền Thủ lại dạy rằng: “Nếu khởi tâm làm phàm, làm Thánh không phải là chơn hạnh; không làm tất cả hạnh, hạnh tâm không nương ký vào đâu cả, đó gọi là Đại Hạnh.” Môn này lấy bổn tánh tự chiếu, gọi là quán “Hạnh môn này trong tất cả thời, tâm vô sở ký đó gọi là chơn tu. Tuy tu đủ vạn hạnh, ở trong vạn hạnh, tâm vô sở ký…”. Thiền tôn ở Trung Hoa bảy đời Tổ Sư, chỗ truyền tâm yếu có ba môn; mà nhiếp tận hết thảy, không để sót gì cả. 

1)Kiến Tánh Môn: Trước cần phải liễu ngộ tuyệt đãi Chơn tâm. Tất cả vọng tưởng bổn không, Chơn tâm bổn tịnh; tức tâm là Phật. Không nhờ ngoại cầu, tức là Đốn giáo Nhứt tâm nói ở trên. 

2)An Tâm Môn: Như ba môn tưởng niệm chơn như đã nói ở trên. 

3)Phát Hạnh Môn: Cần phải đầy đủ tu Bồ Tát Lục độ Vạn hạnh. Đủ y ba môn tức là chánh thiền; thiếu đi một môn sẽ trở thành thiên kiến. Ngài Đạt Ma nói rằng: “Pháp của ta, lấy tâm truyền tâm, không lập văn tự. Tâm này là bổn giác thanh tịnh của tất cả chúng sanh, cũng gọi là Phật tánh. Muốn cầu Phật đạo cần phải ngộ tâm này, tức là Kiến Tánh Môn”. Lại nói rằng: “Do đó an tâm, gọi là quán vách khiến cho kẻ đạo nhơn tu tập, tâm an trụ chơn lý. Tịch nhiên vô vi, ví như tường vách, không khởi phân biệt tức là an tâm môn.” Lại nói rằng: “Như vậy phát hạnh, có bốn hạnh”: 

a)Báo Oán Hạnh: Nghĩa là kẻ tu hành lúc gặp sự khổ sở phải tự nghĩ rằng: Ta từ xưa, trải qua bao số kiếp, bỏ gốc theo ngọn, trôi nổi trong các thú, khởi lên nhiều ghét oán, gây ra nhiều điều bậy bạ, nguy hại. Nay tuy không phạm, nhưng vì ác nghiệp, túc oán đã chín muồi, chẳng phải trời hay người đem lại, cam tâm nhẫn chịu mà không oán trách. Kinh dạy rằng: “Gặp khổ không buồn. Vì sao? Đã hiểu thấu vậy!” 

b)Tùy Duyên Hạnh: Nghĩa là đạo nhơn tu hành nếu được các việc quả báo thù thắng vinh dự, phải tự mình nghĩ rằng: Tất cả pháp đều từ duyên sanh. Vì quá khứ ta tu nhơn đã cảm nay mới được. Duyên hết rồi, trở lại hoàn không; có gì phải vui mừng. Được, mất tùy duyên, tâm không tăng giảm, gió vui không động; gió giận không sanh. 

c)Vô Sở Cầu Hạnh: Đời người mê dại, nơi nơi tham trước gọi là tìm cầu. Người trí khi ngộ chơn lý, xem thấy tam giới, chín cõi cũng như nhà lửa. Có thân đều phải khổ, đâu được sự an vui, ở trong tam giới, không còn chỗ mong vui. Kinh dạy rằng: “Có cầu đều khổ, không cầu mới vui”. 

d) Xứng Pháp Hạnh: Nghĩa là tánh tịnh chơn lý gọi là pháp, mà tánh này vốn không keo kiệt cùng tất cả vạn ác khác. Nên xứng lý tánh mà tu bố thí v.v… Tất cả vạn thiện, riêng bốn hạnh này tức là phát hạnh môn. Ngài Thảo Đường Thiền Sư, ở trong kinh Viên Giác Sớ cũng có ba môn, đều giống như vậy. 

1)Trước hết phải ngộ Viên Giác tánh: Nghĩa là nhứt vị thanh tịnh Chơn tâm. 

2)Phát Bồ đề tâm: Nghĩa là đại bi, đại trí, đại nguyện. 

3)Sau rồi tu Bồ Tát hạnh: Nghĩa là Lục độ Vạn hạnh các pháp. 

Ba môn này rất thiết yếu cho người học Thiền, nếu không viên tu ba môn, không do đâu thể xa lìa các tà kiến. Từ xưa đến nay Ngữ Lục của các nhà Thiền tôn, đa số chỉ ứng theo thời, theo căn cơ hoặc chỉ nói đến kiến tánh, hoặc chỉ nói an tâm, hay chỉ nói phát hạnh. Lại như trong nơi an tâm, phát hạnh, lại mỗi mỗi có nhiều đường lối, hoặc chỉ rõ một đường lối v.v… Nay các môn này, tâm nếu không đạt; nhiên hậu xem đến Thiền giáo khác mới biết được quy chỉ. 

3)Quán Sự Lý Vô Ngại: (Tức là đương sự vô ngại pháp giới quán). Nghĩa là thường quán tất cả các pháp nhiễm tịnh duyên sanh vô tánh, toàn là chơn lý. Chơn lý là tất cả các pháp nhiễm tịnh. Như quán sóng, toàn là tánh ướt, tánh ướt toàn là sóng. Cho nên Khởi Tín Luận nói rằng: Tuy nghĩ các pháp tự tánh không sanh, nhưng lại nghĩ đến nhân duyên hòa hợp. Các nghiệp: thiện, ác, quả báo, khổ vui, không mất, không hoại. (Lý bất ngại Sự vậy, như tánh ướt tuy có một, không chướng ngại cho việc sanh ra nhiều sóng). Tuy nhớ nghĩ nhân duyên thiện ác, nghiệp báo mà cũng liền nghĩ đến tánh của nó không có. (Sự bất ngại lý vậy. Như sóng mòi tuy nhiều, nhưng không ngại toàn thể là tánh ướt.) 

Nếu tu tập: Giả, Không, Trung – ba pháp quán, nghĩa là tưởng tất cả các pháp đều duyên sanh không tự tánh, thể của nó là không, tức là Không quán. Như quán những hình tượng trong gương, toàn là không có thật thể. Nếu tưởng tất cả các pháp, tuy có mà không thật, đều như chiêm bao huyễn hoá, tức là Giả quán. Như quán những hình bóng trong gương, có mà không thật. Nếu tưởng tất cả các pháp, toàn là một vị diệu minh Chơn tâm, nhu trước chung giáo đã nói rõ, Chơn tâm rộng lớn ấy, tức là Trung quán. Như quán cái gương sáng. Ba phép quán này, hoặc là riêng tu một môn, hay là tiệm thứ đều tu, hoặc là một thời đồng tu, tùy ý lấy hay bỏ như đồ dùng. 

4) Đế Võng Vô Tận Quán: (Tức là đương sự sự vô ngại quán). Trong đây lược bày có năm môn: 

1) Lễ kính môn. 
2) Cúng dường môn. 
3) Sám hối môn. 
4) Phát nguyện môn. 
5) Trì tụng môn. 

1)Lễ kính môn:Nghĩa là tưởng hư không khắp pháp giới: trần trần sát sát trước đế võng vô tận Tam-Bảo, có mỗi đế võng vô tận tự thân mình. Mỗi mỗi thân mình đều lễ lạy đế võng Tam-Bảo vô tận. Trước mỗi ngôi Tam-Bảo có đế võng Tam-Bảo tự thân lễ bái. Lại tưởng một môn này, tận hết đời vị lai tế, không thôi nghỉ, niệm niệm tương tục, không gián đoạn, thân ngữ ý nghiệp không có nhàm mỏi (Hoặc trong lúc ngồi thiền quán tưởng; hoặc sớm chiều lễ Phật, khi tu tập kiểm niệm. Nhập quán môn này công đức vô tận). (Ngài Thanh Lương nói rằng: Không nhập pháp quán này, tự mình mệt nhọc uổng công. Hoặc thuần nhập được môn này, thì tưởng khắp pháp giới toàn là Tỳ Lô Phật hoặc Chuẩn Đề v.v... Mỗi trước một tôn tượng, tưởng một thân mình lễ Phật. Tu tập cho đến thuần thục, lần lần tăng trưởng đến 100, 1000 Tôn vị Phật cho đến vô tận. Mấy pháp cũng y theo môn này mà tu tập.) 

2)Cúng dường môn: Tưởng tận hư không khắp pháp giới trần sát đế võng trước vô tận Tam-Bảo, có mỗi đế võng vô tận đồ cúng dường đầy đủ, các sự cúng dường đế võng vô tận Tam-Bảo. Trước mỗi một ngôi Tam-Bảo, có đế võng vô tận thân cúng dường. Lại tưởng một môn này khắp hết đời vị lai tế không nghỉ ngơi. Niệm niệm nối nhau không gián đoạn. Thân, ngữ, ý, nghiệp không nhàm mỏi. (Hoặc trong khi ngồi tưởng cúng dường trước Phật, hoặc thiêu hương, dâng hoa, luyện tập nhập pháp quán này. Nếu không có hương hoa, chỉ chấp tay nhập quán môn này, công đức cũng phát sanh vô tận). 

3)Sám hối môn: Tưởng tận hư không khắp pháp giới, trần trần sát sát đế vọng vô tận trước Tam-Bảo, có đế võng vô tận thân. Mỗi mỗi một thân đều đem hết lòng chí thành sám hối đế võng vô tận tội chướng. Nghĩa là từ hồi nào đến thân ngày nay, đã tạo các tội ngũ nghịch, thập ác, các phiền não sở tri chướng. Mỗi mỗi một thân, sám hối đế võng vô tận tội chướng. Mỗi mỗi tội chướng, có đế võng vô tận thân sám hối. Tổng tưởng một môn này hết thảy đời vị lai tế không bao giờ nghỉ ngơi. Mỗi mỗi niệm nối nhau không gián đoạn. Thân, ngữ, ý nghiệp nối nhau không nhàm mỏi. (Hoặc trong khi ngồi tưởng sám hối, trước Phật sám hối, nên tu tập quán môn này.)

4)Phát nguyện môn: Tưởng tận hư không pháp giới, trần trần sát đế võng vô tận, trước Tam-Bảo có đế võng vô tận thân. Mỗi một thân phát đế võng vô tận nguyện. Nghĩa là: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Phật pháp vô biên thệ nguyện học. Vô biên phước trí thệ nguyện tập. Vô thượng Bồ đề thệ nguyện thành. Đem tất cả tự tâm dã an vui với thiện nguyện mà tổng phát. Mỗi mỗi một thân phát đế võng vô tận nguyện. Mỗi mỗi một nguyện có đế võng vô tận thân phát. Tổng tưởng một môn này hết đời vị lai tế không nghỉ ngơi. Mỗi mỗi niệm nối nhau không gián đoạn. Thân, ngữ, ý nghiệp không nhàm mỏi. (Trong lúc ngồi niệm luyện trước Phật, khi phát nguyện tu tập pháp quán tưởng này.) 

5) Trì tụng môn: Tưởng tận hư không khắp pháp giới, trần trần sát sát đế võng vô tận trước Tam-Bảo, có các đế võng vô tận thân. Mỗi mỗi một thân trì các đế võng vô tận chơn ngôn giáo pháp danh hiệu chư Phật, Bồ Tát. Mỗi mỗi một chơn ngôn giáp pháp, danh hiệu chư Phật, Bồ Tát có đế võng vô tận thân trì tụng. Tổng tường một môn này, tận đời vị lai tế không nghỉ ngơi. Mỗi mỗi niệm nối nhau không gián đoạn. Thân, ngữ, ý nghiệp không nhàm mỏi. (Hoặc khi trì tụng kinh v.v… trước quán tưởng pháp môn này rồi, nhiên hậu trì tụng rất nhiệm mầu. Năm pháp môn đã thực hành rồi, còn các hạnh khác, y theo đây mà tu tập.) 

Nếu tu tập Tương tức quán, có bốn câu: 

1)Một tức là một: Nghĩa là quán một sợi lông tức là một cái tai. Một cái tai, đồng thời là một sợi lông. 

2)Tất cả tức là một. 

3)Một là tất cả: Hai câu này nên hiệp lại mà quán. Nghĩa là khi quán tất cả người, tức là tất cả Phật, tất cả Phật đồng thời, tức là tất cả người. Trong mỗi câu tất cả các pháp lệ chuẩn theo đây mà quán. 

Nếu tu tập Tương tập nhập quán cũng có bốn câu: 

1)Một nhiếp một đem nhập một: Nghĩa là quán một người, nhiếp một Đức Phật, đem nhập vào một vị Bồ Tát. Như cái gương phía Đông nhiếp vào cái gương phía Nam, đem nhập vào cái gương phía Tây. 

2)Một nhiếp tất cả, đem nhập một: Nghĩa là quán một cái hoa nhiếp tất cả sông, đem nhập vào một hòn núi. 

3)Tất cả nhiếp một, đem nhập tất cả: Nghĩa là quán tất cả trần nhiếp một Đức Phật, đem nhập trong một sợi lông. 

4)Tất cả nhiếp tất cả, đem nhập vào tất cả: Nghĩa là quán tất cả cây nhiếp tất cả thần, đem nhập vào trong tất cả biển. Trong mỗi câu, tất cả các pháp lệ chuẩn nơi đây mà quán tưởng. Hai phép quán: Tương tức, tương nhập này, tùy theo trong mỗi câu mà quán tưởng, lại có tổng quán, biệt quán, nhiều pháp môn. Sợ phiền, không trình bày hết, chỉ chuyên tâm tu luyện, tự nhiên hiểu thấu. 

Cho nên Ngài Bùi Công ở trong bài tựa Pháp Giới Quán nói rằng: “Chỉ khiến cho người học không rõ cảnh trong tự tâm. Tâm huệ đã sáng tỏ rồi, tự thấy nghĩa vô tận. Đừng đem giáo nghĩa Viên Thông ra chia vụn vặt từng đoạn. Nếu đồng thời tu tập đầy đủ tương ưng quán, nghĩa là tùy quán một pháp, đồng thời đầy đủ pháp giới các pháp vậy. Các huyền môn kia lệ nơi đây mà hiểu. Nếu ưa muốn tu tập Viên tôn tam quán chỉ. Chính như thân một người rõ ba đế: Nhơn thân giả tướng mà có, đó gọi là Tục đế. Nhơn thân duyên sanh vô tánh, sắc thể của nói toàn không gọi là Chơn đế. Nhơn thân giả tướng không có tự tánh riêng biệt, thể của nó toàn là tịch chiếu chơn lý, gọi là Trung đạo đế. Nhưng ba đế này thể dụng không ngại, không, hữu dung nhau. Tức một mà ba, tức ba mà một. Pháp vốn như thị, y như ba đế này hành giả quán sát thành Tam quán Tam chỉ. Nghĩa là tâm của hành giả quán nhơn thân giả tướng, lìa được cái chấp đó gọi là Phương tiện tùy duyên chỉ. Lại quán nhơn thân sắc thể toàn không, gọi là không quán. Tức quán tâm này khi rõ được sắc Không, lìa được các chấp sắc thể thật có, gọi là Thể chơn chỉ. Lại quán nhơn thân này toàn là Trung đạo thật tánh gọi là Trung đạo quán. Tức là quán tâm này xa lìa được cái chấp có tướng và xa lìa được cái chấp thể không gọi là Viễn ly nhị biên phân biệt chỉ. 

Quán tâm như vậy ở trong một niệm thấy cả ba đế, nghĩa là lập tam quán. Xa lìa được ba món chấp, nghĩa là lập tam chỉ. Tam quán tam chỉ, chỉ là nhứt tâm. Tức một thường là sáu, tức là sáu thường là một. Đem nhứt tâm này khế đồng sở quán tam đế, cảnh vô ngại của thể và dụng, của không và hữu. Tâm cảnh thường dung, lại thường rõ ràng. Đã quán một thân người mà thành tam quán tam chỉ; quán tất cả đều như vậy. Hỏi rằng: Luận về Đại Hạnh tóm lại chỉ vô niệm; cớ sao lấy đế võng tương tức quán v.v… Khiến cho người khởi lên vô tận tưởng niệm, há không mệt mỏi thân tâm ư? Xin trả lời: Nếu thấy đây là một ly niệm để ngoại cầu vô niệm, mà còn chưa được cái chơn vô niệm. Chơn vô niệm là niệm vốn không không làm thế nào lại được cái niệm, cùng vô niệm không chướng ngại nhau? Nếu như được toàn thể Viên hạnh trong Vô tận hạnh? Lời hỏi này là cái ý xuất ra trong Hoa Nghiêm Kinh Đại Sở. Nếu không tu tập các quán đế võng tương tức, thì không thể chứng trọn được vô ngại Phật quả. Nay có tiểu căn nghe pháp môn này liền thêm phiền loạn, hoàn toàn không thèm để ý. Người xưa nói rằng: con ếch ngồi đáy giếng không thể biết nơi biển lớn được. Núi Thái Sơn không thể đựng trong đãy được. 

5)Vô Chướng Ngại Pháp Giới Quán: (Tức đương tức pháp giới sở y tổng pháp giới quán), nghĩa là thường quán sát tất cả pháp nhiễm tịnh. Thể của nó toàn là vô chướng ngại pháp giới tâm. Trí năng quán này cũng tưởng toàn là pháp giới tâm. Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Biết tất cả pháp, là tâm tự tánh. Thành tựu huệ thân, không do tha ngộ”. Lại Ngài Thanh Lương nói rằng: “Nếu biết xúc vật đều là tâm, mới rõ được tâm tánh. Nay trong vô chướng ngại pháp giới này, vốn đủ ba thế gian, bốn pháp giới. Tất cả nhiễm tịnh các pháp, chưa có một pháp nào ra ngoài pháp này, mà pháp giới này đầy đủ cái này, cái kia, xen nhau vô chướng ngại. Thời biết căn căn, trần trần, toàn là vô chướng ngại pháp giới. Nếu ở trong bốn oai nghi, thường quán căn căn, trần trần đều là trùng trùng vô tận pháp giới, thì tu được cảnh giới phổ nhãn vậy. Quán này là căn bản của tất cả phép quán tam muội. Nếu thường tu tập, tất cả tam muội quán môn tự nhiên hiện tiền.” Như trên đã nói nhiều quán môn, hoặc ưa thích tổng tu, hoặc tu một, hai phép, tùy lòng đều được. Chỉ chuyên cần tu luyện, một đời chưa được, ba đời chắc hoàn thành. Lại nữa, hành giả cần phải nổi lên cái tư tưởng, tưởng được hiện tiền, thường được hiện không ẩn mới là Hoa Nghiêm Viên giáo, Chơn Hạnh; Thanh Lương Sở Chú: Sự sự vô ngại trong mười huyền môn gồm có sáu câu. Năm câu trước là khởi tưởng tu luyện, luyện được hiện tiền rồi, lại không tưởng luyện, tuy không tưởng luyện thường hiện không ẩn, mới thành đệ lục hành cú. Pháp giới quán nói rằng: “Suy tư thật sâu xa, khiến nó hiện ra trước mắt, viên minh hiển hiện, xứng hạnh cảnh giới.” Ngài Khuê Sơn thiền sư giải thích rằng: “Suy tư khiến nó hiện ra chơn giải vậy. Đã hiện ra, liền dừng suy tưởng. Tuy không suy tưởng mà cũng thường hiện ra, không giấu kín mới là thật hạnh.” 

Ngài Nhất Hạnh thiền sư nói rằng: “Trước cần khởi tưởng, tưởng được hiện tiền, nhiên hậu dùng Bát nhã không mà tịnh trừ nó. Tức thành bất tư nghì đại dụng, liền đốn nhập Phật quả. Nếu không khởi tâm quán đó, lầm lãnh hội ý Bát nhã, dẫu cho có nhập không cũng mất đạo lý viên đốn, đối với viên tôn hành giả tu luyện chí thiết thì tự nhiên lời nói biến mất, dứt tuyệt suy nghĩ, liễu liễu phân minh mới là chơn tu hạnh. Nếu được như vậy trong bốn oai nghi thường thấy những cảnh giới không thể nghĩ bàn. Người muốn tu đạo nên lưu tâm sự này, bổn lai như vậy, chỉ vì mê muội không thấy đó thôi. 

Người tu tâm hoặc có cảnh mộng thiện ác, hoặc gặp các thứ ma chướng hiện ra các cảnh giới khác: Trái, thuận, hay nghe các thứ tiếng thiện ác, hoặc các loài trùng kiến bò chạy trên thân, hoặc thân tâm không an, nhiều lo lắng. Hoặc khi nhập quán tưởng có các thứ tướng hiện, không đồng với bổn quán tương ưng v.v… Điều cần phải quán đó như chiêm bao, mộng huyễn, tất cả đều không có thật. Hoặc quán tất cả là tự chân tâm của mình. Luận Khởi Tín dạy rằng: “Đương niệm duy tâm, cảnh giới bèn diệt, không thể làm hại mình được.” 

Từ trước đến giờ đã nói xong phần HIỂN GIÁO TÂM YẾU.

 


II. MẬT GIÁO TÂM YẾU


Gồm có các bộ như: Thần Biến Sớ Sao, Mạn Trà La Sớ Sao, đều cho Đà ra ni giáo là Mật Viên vậy. Hiển giáo viên tôn về phần trước, nói sự tu hành cốt yếu trước phải ngộ Tỳ Lô pháp giới. Sau y ngộ, tu Phổ Hiền Hạnh Hải, lìa được sanh tử, chứng được nhập thân vô ngại Phật quả. Như người bịnh được phương thuốc tốt, cần phải biết phân, lượng, phép tắc bào chế, hiệp thành mà uống mới có thể lành bệnh, thân an.

Nay Mật Viên Thần chú, tất cả chúng sanh cho đến nhơn vị Bồ Tát, tuy không hiểu được, chỉ tụng đó liền được Tỳ Lô Pháp GiớiPhổ Hiền Hạnh Hải. Được lìa sanh tửthành tựu mười thân vô ngại Phật quả, như bịnh nhân gặp được món diệu dược. Tuy không biết phân lượng phép tắc hoà hợp; chỉ uống thuốc là tự nhiên trừ bịnh, thân an. Cho nên kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng: “Mật chú của chư Phật là phép bí mật; chỉ có Phật với Phật tự biết với nhau; các vị Thánh không thể thông đạt. Chỉ tụng trì là diệt được đại lỗi, mau lên Thánh vị.” Lại nói rằng: “Thần chú là Mật ấn của chư Phật; Phật, Phật truyền nhau, người khác không thể thông hiểu.” Hiền Thủ Bát nhã sớ nói rằng: “Chú là pháp bí mật của chư Phật, không phải chỗ hiểu của nhơn vị”. Chỉ tụng trì không cần phải gượng giải thích. Còn Viễn Công Niết Bàn Sớ nói rằng: “Chơn ngôn chưa chắc là chuyên ngữ của người Thiên TrúcPhiên dịch lại không hiểu, vì vậy nên không phiên giải!”. Trong Thiên Thai Chỉ Quán nói rằng: “ Bậc Thượng Thánh mới có thể nói cả hai pháp Hiển Mật. Kẻ phàm nhơn chỉ tuyên truyền Hiển giáo, không thể tuyên truyền về mật giáo. Các Sư từ xưa đều nói: “Đà Ra Ni, nhơn vị Thánh Hiền, không thể hiểu giải, chỉ nên tin mà thọ trì, diệt được tội chướngthành tựu phước đức.”

Hỏi: Vì sao, Mật chú của chư Phật không thể giải thích cho người khác hiểu?

Đáp: Thần chú là viên mãn giải là phiến diện. Giải làm cho chú mất; bởi vậy nên không giải thích cho người khác rõ được, mật nghĩa nằm trong đó, cần phải suy nghĩ. Trong Pháp Hoa Sao nói rằng: “Về bí pháp của chư Phật, không hiểu nghĩa nó được, cho nên nói là Mật ngôn”. Bát nhã kinh nói: “Tổng trì như thuốc thần, cũng như cam lồ của trời trị lành các bịnh sai lầm, uống thì thường an vui.

Lại trong Lý Thú kinhđức Như Lai có nói năm tạng:

1)Kinh Tạng: Như sữa bò.
2)Luật Tạng: Như sữa đặc.
3)Luận Tạng: Như sữa tươi.
4)Bát Nhã Tạng: Như sữa chín.
5) Đà Ra Ni Tạng: Như đề hồ.

(Đề hồ là vị đã lọc, nó ngon nhất trong các món ăn bằng sữa; trị được các bịnh, khiến các hữu tình thân tâm an vui. Ở Tây Thiên Trúc thường dùng đề hồ để trị các bịnh.)

Đà Ra Ni trong các Kinh, Luật là tối thắng, đệ nhất, hay trừ các tội giúp cho các chúng sanh giải thoát sanh tử, mau chứng Niết Bàn, An-Lạc pháp thânLý Thú kinh sớ nói rằng: “Tánh Đức Lực Đại, mật chú công cường, giải hạnh tuy kém, giải thoát thì mau.” Các đại sư như: Hiền Thủ v.v… chỉ cho Hoa Nghiêm kinh là Viên, các giáo khác đều không phải. Nay lại cho Đà Ra Ni là Viên giáo, vậy không trái với Hiền Thủ cùng các đại sư khác sao?

-Đáp: Viên tông có hai:

1)Hiển viên.
2)Mật viên.

Hiền Thủ chỉ căn cứ vào Hiển giáo chánh phán Hoa Nghiêm là Viên. Nay có Thần Biến sớ sao, Mạn Trà La Sớ Sao, cho rằng giống như các thứ Hiển viên, Mật giáo cũng là Viên tôngHiển Mật đã khác mà các sự không trái. Y theo Mật Viên tu luyện cũng chia làm hai:

1)Trì tụng nghi quỹ.
2)Nghiệm thành hành tướng.

Trước hết nói về Trì Tụng Nghi QuỹChơn Ngôn hành giả, mỗi ngày muốn y pháp trì tụng, trước hết phải ngồi Kim Cang chính tọa: (Lấy chân bên hữu gác lên chân bên tả, hoặc tùy ý ngồi sao cũng được.) Tay kiết Đại Tam muội ấn (Lấy hai tay ngửa ra rồi tay hữu để lên tay bên tả, hai đầu ngón cái giáp lại nhau, để ngang dưới rún, ấn này hay diệt tất cả cuồng loạnvọng niệmtư duy tạp nhiễm.) Thân tam lắng tịnh, nhập định pháp giới Tam muội. Tưởng: tự thân trên đảnh đầu ta có một chữ Phạn LAM: 




Chữ này biến ra ánh sáng quang minh, như ngọc Minh châu, như mặt trăng rằm tròn sáng. Tưởng chữ này xong, lại lấy tay trái kiết ấn: Kim Cang Quyền ấn: (Lấy ngón tay cái để trong lòng bàn tay bấm lại đốt vô danh chỉ giáp lòng bàn tay, rồi nắm chặt như cầm cú, ấn này hay trừ nội, ngoại chướng nhiễm, thành tựu tất cả công đức.) Tay mặt cầm chuỗi ký số, miệng tụng: Tịnh pháp giới chơn ngôn: 21 hoặc 108 biến. Chơn ngôn: Án Lam; hoặc chỉ đơn trì Lam hay là Lãm. Phạn tự : Án Lam :




Tịnh pháp giới Lam tự này, hoặc tưởng, hoặc tụng thường khiến tam nghiệp đều được thanh tịnhtất cả tội chướng đều được tiêu trừ. Lại hay thành tựu tất cả việc thù thắng; ở chỗ nào cũng được thanh tịnhY phục bất tịnh khiến thành tịnh y. Thân không tắm gội vẫn được sạch sẽ; nếu dùng nước làm cho sạch, không gọi là Chơn tịnh. Nếu dụng tịnh pháp giới LAM tự này để tịnh, liền gọi là bình thanh tịnh triệt để. Như một hạt linh đơn điểm vào sắt thành vàng ròngChơn ngôn một chữ biến nhiễm thành tịnh. Kệ rằng:

Ra tự sắc tiển Bạch. Không điểm dĩ nghiêm chi. Chữ RA, sắc trắng tịnh, điểm vào chỗ không để trang nghiêm nó, Phạn tự RA: 



điểm vào chỗ không trên, tức thành LAM tự.



Như Minh châu trên nhục kếan trí tại đỉnh đầu; Chơn ngôn đồng pháp giớivô lượng chúng tội trừ. Tất cả xúc uế, nên gia trì chữ này. Nếu thật ngoại duyên không đầy đủ, không nước để tắm rửa, thiếu y mới tinh sạch, chỉ dùng LAM tự để làm cho sạch. Nếu người có ngoại duyên đầy đủ, trước dùng nước xong mặc y mới thanh tịnh, lại dùng LAM tự tịnh nữa, tức là trong ngoài đều thanh tịnh. (Như các chơn ngôn Nghi quỹ nói.)

Rồi tiếp tục tụng chúHộ thân chơn ngôn 21 hay 108 biến. Chơn ngôn, Phạn tự ÁN XỈ LÂM




Nếu tụng chú này, hay diệt ngũ nghịchthập ác, tất cả tội nghiệp. Có công năng trừ tất cả bịnh, tai chướng, ác mộng, tà mị, quỷ thần và các việc bất tường. Thành tựu các việc thù thắng; khiến tất cả mọi sự mong cầu đều được viên mãn. Chú này là tâm của chư Phật, nếu người chuyên tâm tụng một biến hay bảo hộ được chính mình. Tụng hai biến hay bảo hộ được đồng bạn. Tụng ba biến thường bảo hộ mọi người trong nhà. Tụng bốn biến bảo hộ mọi người trong một thành. Cho đến bảy biến hay bảo hộ người trong tứ thiên hạ.

Rộng như Văn Thù Căn Bản Nhứt Tự Chú kinh nói.

Kế đến tụng 108 biến Lục Tự Đại Minh Chơn ngônÁN MA NI BÁT DI HỒNG, ÁN MA NI BÁT MINH HỒNG hay MA NI BÁT NẠP MINH HỒNG.





Nếu tụng chú này ngay chỗ có vô lượng chư Phật, Bồ TátThiên LongBát Bộ nhóm hội, đầy đủ vô lượng tam muội pháp môn. Ai tụng trì, thì bảy đời dòng họ đều được giải thoát; các trùng ở trong bụng sẽ được Bồ Tát vị. Người đó hằng ngày được đầy đủ công

đức sáu pháp Ba la mật. Được vô tận biện tài trí huệ thanh tịnh. Hơi ra trong miệng chạm đến người nào, người đó nhờ sự tiếp xúc xa lìa các sân độc, sẽ được Bồ Tát vị. Giả như: Người trong bốn thiên hạ, đều đắc Thất địa Bồ Tát vị. Các Bồ Tát đó có bao nhiêu công đức, sánh với công đức tụng một biến chú Lục tự, cả hai đều bình đẳng không sai khác. Chú này là Vi diệu bổn tâm của Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát. Nếu người nào chép lại sau chữ Đại Minh này, sánh với sự viết, chép tám vạn bốn ngàn Pháp Tạng, cũng bằng công đức đó, không sai khác. Nếu lấy vàng báu tạo tượng Như Lai, số như vi trần, không bằng công đức việt một trong sáu chữ này. Nếu người nào đã đắc sáu chữ Đại Minh này, thì họ không còn bị nhiễm trước tham, sân, si. Nếu đeo Thần chú này nơi thân cũng hết nhiễm tham, sân, si. Người trì tụng đeo mang sáu chữ này, tất cả loài hữu tình mà chân, tay người đó chạm đến, mắt người đó ngó đến, đều mau đắc Bồ Tát vị, không còn thọ các khổ sanh tử nữa. Khi nói xong Lục Tự Đại Minh này, có Thất Thập Thất Cu Chi Phật đồng thời xuất hiện và đồng thanh nói “CHUẨN ĐỀ CHÚ”. Vậy, nên biết Lục Tự Đại Minh cùng Chuẩn Đề Chơn ngôn lần lượt nương vào nhau. (Rộng như Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương kinh nói.) Nhiên hậu kiết ấn Chuẩn Đề tại Tim.

Chuẩn Đề Chơn ngôn cùng Nhứt tự luân chú, một thời đồng tụng 108 biến xong rồi xả ấn trên đỉnh đầu. (Hoặc không muốn tụng Đại Luân Chú, chỉ trì Chuẩn Đề Chơn ngôn cũng được.)





CHUẨN ĐỀ PHÁP ẤN



Lấy ngón áp út và ngón tay út bên mặt cùng bên trái xỏ lộn với nhau vào trong lòng bàn tay; dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ mà vịn vào lóng đầu của hai ngón tay giữa; còn hai ngón tay cái thì đè lên lóng giữa ngón tay áp út bên mặt, để ngang ngực, chí tâm tụng chú Chuẩn Đề và Đại Luân Nhứt Tự, nếu muốn triệu thỉnh, đưa qua đưa lại hai đầu ngón tay trỏ. Khi kiết ấntụng chú, muốn đếm số cho nhớ, ở nơi tay chia lóng chỉ trên mà đếm. Hoặc trên tay của tượng Chuẩn Đề Bồ Tát, hoặc quán tâm ký số, hoặc mười niệm ký số. Hoặc kiết ấn tụng được một nghìn tám chục biến (1.080) rất tốt, hay hơn 108 biến. Hoặc chỉ tay bên tả kiết ấn kim cang quyền, tay bên hữu cầm chuỗi trì số cũng được, nếu sợ lộn, chỉ tán trì cũng có kết quả.

Thất Cu Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Đà Ra Ni Chơn ngônNam Mô Tát Đa Nẫm, Tam Miệu Tam Bồ Đề Cu Chi Nẫm, Đát Điệt Tha. Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm.






Phật dạy: Thần chú này có công năng diệt trừ thập ác ngũ nghịch tất cả tội chướngThành tựu tất cả bách công đứcTrì chú này dù ở tại gia hay xuất gia, không lựa kẻ tịnh người uế; chỉ chí tâm trì tụng hay khiến chúng sanh đời sống ngắn ngủi, sẽ tăng thọ vô lượngCa Ma La tật là bệnh nan y, còn trị lành, huống chi các bịnh khác; nếu không tiêu diệt là không có lý. Nếu có ai tụng mãn bốn mươi chín ngày, Chuẩn Đề Bồ Tát khiến hai vị Thánh thường theo người đó, kẻ nào có tâm niệm thiện ác, đều mỗi mỗi báo hiệu hai bên tai người đó đầy đủ. Nếu có người vô phước trúng tướng cầu quan không toại ý, nghèo cùng khốn khổ, bức bách; thường tụng chú này sẽ khiến hiện đời được phước báu như Luân Vương cầu xin quan vị quyết được xứng toại. (Trong Thiền Tôn, truyện Đăng Lục có trí dẫn người xưa) : “Cu chi chỉ niệm Tam Hành Chú mà được danh tiếng hơn người”. Nếu cầu trí tuệ được đại trí tuệ; cầu nam nữ được nam nữ. Phàm có sở cầu, đều được xứng lòng và toại ý, giống như ngọc Như ý; tất cả tùy tâm mình muốn. Hơn nữa, tụng chug này thường khiến cho các quốc vương, đại thần và tứ chúng đều sanh lòng kính yêu, thảy đều hoan hỷ. Người tụng chú này, xuống nước không chết chìm, nạn lửa không thể đốt. Độc dượcoan gia, quân trận, cường tặc và ác long thú, các loài quỷ mị đều không thể hại. Nếu muốn thỉnh: Phạm vươngĐế ThíchTứ Thiên VươngDiêm LaThiên Tử v.v… chỉ tụng chú này tùy thỉnh quyết đến, không dám trước sau chậm trễ. Hoặc có sai khiến gì được như ý muốn. Thần chú này có thế lực lớn đối với Nam Thiệm Bộ Châu. Dời núi Tu Di; khô nước Đại Hải; chú vào cây khô sẽ phát sanh hoa quả, huống chi là người năng y pháp trì tụng, có thể chuyển nhục thân, được đại Thần túc, sanh về cõi trời Đâu Suất. Nếu cầu trường sanh và các tiên dượcchỉ y pháp tụng chú, sẽ thấy được đức Quan Thế Âm Bồ TátKim Cang Thủ Bồ Tát trao cho thần tiên diệu dược, lấy đó mà ăn, sẽ thành tiên đạo. Được sống lâu ngang bằng nhật nguyệt, chứng Bồ Tát vị. Nếu y pháp tụng mãn một trăm vạn biến, liền được đi mười phương Tịnh Độ, hầu hạ các vị Phật, nghe khắp diệu pháp, chứng được quả Bồ đề.

Nếu muốn thành tựu đàn pháp: ở đây không đồng các Chơn ngôn khác, cần phải rộng tu cúng dường chỗ kiến lập đạo tràng phải cuốc đất hương nê : (bột hương trộn đất nhão để thoa khắp nơi đạo tràng). Ở đây chỉ dùng một cái kính tròn rất mới, chưa dùng (làm Kính đàn) để trước tượng Phật tùy theo tháng ngày tối Rằm; mặt hướng về phương Đông, ngồi trước Kính đàn tùy sức trang nghiêm; các món cúng dường đầy đủ. Xông An tức hương, nước tịnh thủy, nhiên hậu kiết ấn để tại ngang ngực. Chú trong Kính đàn 108 biến Chuẩn Đề, xong lấy bao vải bỏ Kính đàn vào, đi đâu cũng đem theo để tùy thân. Mỗi khi muốn tụng niệm, chỉ lấy Kính đàn ra để trước mặtkiết ấn tụng chúNếu không thể tụng niệm hằng ngày, chỉ cần những ngày thập trai, đối Kính trì tụng cũng được.

Ngoài mười ngày trai, không trì tụng trước Kính đàn cũng được. (Trong Mật tạng, Kính đàn này là yếu diệu, Tổng nhiếp tất cả các Đàn phápNếu không có Kính đàn, chỉ tưởng một Kính đàn trước mặt mà trì tụng. Kinh Tịnh chư ác thú, cùng nhiều kinh khác phần nhiều nói: Tưởng thành Đàn pháp, trì tụng là hơn hết. Hoặc không tưởng được Đàn pháp chỉ nên chuyên tâm trì chú. Các ngày thập trai: 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30.) Chú Chuẩn Đề này các Phật và Bồ Tát đều đồng nói. Độc Bộ Biệt Hành, tổng nhiếp 25 bộ Chơn ngôn Đàn PhápChuẩn Đề Phạn bổn Văn thuyết có mười vạn bài kệ. Ngài Long Thọ Bồ Tát nói bài kệ tán thán rằng:

Chuẩn đề công đức tụ

Tịch tịnh tâm thường tụng

Nhứt thiết chư đại nạn

Vô năng xâm thị nhân

Thiên thượng cập nhân gian

Thọ phước như Phật đẳng

Ngộ thử như ý châu

Định hoạch vô đẳng đẳng


Chuẩn Đề Công Đức tụ;
Vắng lặng tâm thường tụng.
Tất cả các đại nạn,
Không thể xâm phạm người.
Trên trời và cõi người,
Thọ phước ngang bằng Phật.
Gặp châu Như Ý này,
Đắc định, chứng Bồ đề.


(Rộng như Chuẩn Đề kinh và Trì Minh Tạng Long Thọ Nghi, nói: Chuẩn Đề cũng có nơi gọi: Chuẩn Nê hay Tôn Na… Chỉ là Phạn âm bất đồng mà thôi.)

Chú Đại Luân Nhứt Tự: tức là Bộ Lâm:



cũng gọi là Nhứt Tự Tâm Chú trong đời mạt pháp. Đối với thời mạt pháp, khi chánh pháp sắp diệt, chú này có đại thế lực. Hay giúp thế gian làm đại lợi ích, hay hộ trì Pháp Tạng của Như Lai, hay hàng phục tất cả tám bộ chúng, hay bẽ gãy tất cả các ác chú trong thế gian. Đây là đảnh của các Đức Phật, là tâm của Văn Thù Bồ Tát, hay ban thí vô úy cho tất cả chúng sanh và ban sự vui sướng cho họ. Phàm có tu trì sẽ tùy ý đắc quả, giống như ngọc Như Ý. Có công năng làm mãn nguyện tất cả. Nếu tụng chú này, nhìn thẳng bốn phương, các ác quỷ thần các xa năm trăm trạm đều chạy tản lạc. Các ác tinh diệu và các Thiên ma không dám lại gần. Nếu trì tụng các chơn

ngộn khác sợ không thành tựu. Nên dùng chú này cộng chung với Chơn ngôn khác đồng thời trì tụng, nhất định sẽ kết quả. Nếu không thành tựu và hiệu nghiệm thì các vị thần hộ chú kia cái đầu sẽ bị phá vỡ ra làm bảy phần. Cho nên chú này thường trợ lực cho các Chơn ngôn mau có kết quả. Hoặc trì riêng chú này cũng được. (Rộng như Văn Thù Nghi kinh; Mạt Phát Trung Nhứt Tự Tâm chú kinh nói.)

Từ trước đến giờ lần lượt trì tụng đến Chuẩn Đề chú; nếu không kiết được ấn chú Chuẩn Đề, thì lấy tay trái kiết ấn Kim Cang quyền, tay mặt cầm chuỗi mà trì tụng. Hoặc không theo sau, trước tụng tịnh pháp giới Chơn ngôn lần lượt thọ trìchỉ trì Chuẩn Đề Thần chú, hoặc căn độn không thể thọ trì đầy đủ chú ấy; chỉ từ chữ Án trở xuống mà trì, nên chữ Án là lời quy kính. Từ chữ Án v.v… là chánh Thần chú vậy. Mỗi khi trì tụng rồi, liền dùng tay mặt kiết ấn Kim Cang, miệng tụng Hồng Hồng Chơn ngôn cho liên tiếp mà ấn vào năm chỗ:

1-Ấn trên trán.
2-Ấn vai phía trước.
3-Ấn vai bên mặt.
4-Ấn tại nơi ngực.
5-Ấn ở yết hầu.

Ấn xong xả ấn lên trên đỉnh đầu.

Hay trừ các ma chướngthành tựu tất cả thắng sự. Hoặc trước khi trì tụng, kiết ấn trước năm chỗ rồi trì tụng. Lại nữa, tùy theo chỗ trụ xứ, muốn bài trừ Thần Quỷ, kiết Kim Cang giới. Chỉ tụng Chuẩn Đề Chơn ngôngia trì chú trong hương thủy (nước hương thơm) 21 biến rồi đem rải vào tám phương trên dưới liền thành tịch trừ kiết giới. Lại khi chánh trì tụng, căn cứ theo Cu Chi Đà Ra Ni kinh, Kim Cang Đảnh kinhNgũ Tự Đà Ra Ni kinh v.v… Trong các bổn kinh đó có nói, theo căn cơ ưa muốn, cũng có nhiều thứ.

1)Du Dà Trì: Chỉ tưởng có chữ hiện ra trong tâm nguyệt luân. Nghĩa là tưởng tự tâm mình như một mặt trăng tròn vắng lặngthanh tịnh, trong ngoài phân minhLấy Phạn thư Án tự, an trong tâm nguyệt luân; lấy Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha



tự; theo trước xoay về phía bên hữu, lần lượt hiện khắp theo một vòng tròn (đọc cao giọng xong rồi trở lại từ đầu).

2)Xuất nhập tức trì: Nghĩa là trong hơi thở ra vào, tưởng có Chơn ngôn Phạn tự. Hơi thở ra theo chữ ra, hơi hít vào theo chữ vào. Chữ chữ, sáng rõ như xâu chuỗi ngọc minh châu, không được gián đoạn. (Hoặc khi thở hơi ra, tưởng tượng trong tâm như mặt trăng tròn sáng: Chín chữ Phạn, xoay vần đều có ánh sáng năm màu. Từ trong miệng mình lưu nhập vào trong miệng đức Chuẩn Đề Bồ Tátxoay quanh bên hữu, an bố trong tâm nguyệt luân của Chuẩn Đề Bồ Tát. Nếu khi hít vào tưởng chữ trong tâm nguyện luân của Ngài Chuẩn Đề Bồ Tát. Từng chữ nối kết tròn liền nhau, chữ cũng xoay vần đều có ánh sáng năm sắc, từ miệng của Chuẩn Đề Bồ Tát tuôn ra, lưu nhập vào trong miệng mình, xoay vần bên mặt, an bố trong tâm nguyệt luân. Xong rồi trở ra từ đầu, rất là nhiệm mầu.)

3)Kim Cang Trì: Môi, răng không động, lưỡi không đến cái nướu, chỉ động nho nhỏ trong miệng.

4)Vi Thinh Trì: Chỉ khiến cho tai mình tự nghe: không chậm, không mau, từng chữ phân minh mà xưng niệm.

5)Cao Thinh Trì: Khiến kẻ khác nghe được diệt tội, lại có hai cách trì tụng:

1- Vô số trì tụng: Nghĩa là không trì chuỗi định số, thường trì luôn không gián đoạn.

2- Hữu số trì tụng: Nghĩa là lần chuỗi trì tụng mỗi ngày phải hạn định bao nhiêu, không được thiếu sót.

Nếu lần chuỗi trì tụng, chỗ thu hoạch công đức, như các kinh rộng khen ngợi. Như kinh Số Châu Công Đức nói: Nếu có người tay cầm chuỗi, tuy không niệm Phật và Đà Ra Ni, người ấy cũng được phước vô lượng. Và trong kinh Kim Cang Niệm Châu có bài kệ rằng: “Nếu để trên đỉnh đầu tịnh tội vô gián, đeo trên cổ diệt được bốn trọng nghiệp, trì nắm tay sẽ trừ các tội giúp cho hành giả mau thanh tịnh”. Lại Nhứt Tự Đảnh Luân Nghi có nói: “Nếu dùng LAM TỰ 




Chơn ngôn gia trì số châu bảy biến, khi hành trì một biến thành nghìn biến, nếu lần chuỗi đến hột mẫu châu, phải trở lại không được vượt qua mẫu châu). Mỗi ngày y pháp trì tụng, cần phải phân thời hạn định. Nếu như một thời, thì buổi sớm mai. Hai thời thì thêm buổi hoàng hôn. Nếu trì ba thời thì thêm buổi chánh ngọ. (Nếu công việc bận rộn, không cần phải phân thời, lúc nào trì tụng cũng được.)

Nếu hạng thượng căn trì tụng, cần phải được Tam mật tương ưng.

1) Thân mậtKiết ấn.
2) Ngữ mậtTụng chú.
3) Ý mật: Hoặc tưởng Chơn ngôn Phạn tự, hoặc duyên nghe theo tiếng trì tụng.

Hoặc tưởng tượng đức Chuẩn Đề Bồ Tát, hoặc tưởng trong tay của Bồ Tát cầm các vật như xử, bình, hoa, quả v.v… Cho nên Thần Biến Kinh Sớ nói: Nếu dùng Tam mật làm môn tu hành; không cần tu trải qua nhiều kiếp số, đủ tu các hạnh, chỉ nơi đời này đầy đủ các Ba la mật rồi. Lại nữa, khi đang trì tụng chưa đủ 108 biến, không được nói chuyện với ai. Còn nếu muốn nói chuyện thì phải tưởng trên lưỡi mình chữ phạm LAM:



dù cho nói chuyện cũng không bị gián đoạn.

Hỏi: Chỉ trì tụng nhứt đạo Chơn ngôn sẽ thành tựu hay phải rộng trì nhiều bổn Chơn ngôn mới được thành tựu công đức?

Đáp: Có hai môn:

1)Tùy căn cơ ưa muốn: Căn cơ có nhiều sự ưa muốn bất đồng. Hoặc ưa trì 3, 5, 10 đạo cho đến 100 đạo v.v… Trong đó tùy căn cơ ưa muốn không đồng, đều được trì tụng.

2)Muốn mau chóng thành tựu: Muốn cầu tất cả công đức mau thành tựu, nên chuyên trì tụng nhứt đạo Chơn ngôn cho thành, thời tất cả Chơn ngôn công đức đều thành tựu.
 

Cho nên kinh Văn Thù Nghi Quỹ có nói: Nếu muốn tất cả công đức thành tựu, không được dùng Chơn ngôn mà khởi tư tưởng như trên, tuy có số đạo Chơn ngôn, nhưng đó là thứ lớp trì tụng với Chuẩn Đề Chơn ngôn.

Hỏi: Đã chuyên tụng một Thần chú mau được thành tựu, vì sao lại hay bày vẽ Chuẩn Đề ngôn cho người trì tụng?

Đáp: 1- Vì Chuẩn Đề Chơn ngôn bao gồm tất cả các Chơn ngôn, và bao hàm tất cả các Thần chú. Các chú không bao hàm được Chuẩn Đề như biển lớn hay nhiếp trăm sông chứ trăm sông không thể thu nhiếp biển lớn (Chuẩn Đề tổng hàm các chú sau đây sẽ rõ.)

2- Vì Chuẩn Đề Đàn pháp người dễ làm thành tựu. Chỉ lấy một cái kính mới chưa từng dùng, ấy là Đàn pháp . Không đồng như các chú, phải kiến lập đàn pháp , cần phải lựa chọn nơi tịnh xứ hương nê đồ địa, rộng tạo các Phật tượng, các món cúng dường đầy đủ mới có thể thành tựu. (Người có tài vật, rộng tạo các Phật tượng, các món cúng dường đầy đủ, nơi trước tượng Phậtan trí Kính đàn, đối trước trì tụng lại càng nhiệm mầu.)

Vì Chuẩn Đề không cần lựa tính cách nhiễm tịnh để trì tụng, chẳng luận tại giaxuất gia, đã lỡ uống rượu, ăn thịt, có vợ con v.v… đều trì tụng được. Không giống các Thần chú khác cần yếu phải trì giới mới hay tụng tập. (Nay vì những kẻ thế tục đeo mang vợ con, uống rượu, ăn thịt, ấy là thường nghiệp của họ. Tuy gặp kẻ Tăng nhơn dạy bảo, nhưng tập tánh khó mà cải đổi. Nếu không dùng Đại bất tư nghì chú pháp này cứu thoát, thì những kẻ như vậy biết ngày nào ra khỏi sanh tử. Còn những ai, trai giới thanh tịnh y pháp trì tụng, lại là thù thắng nhiệm mầu hơn hết. Trong kinh Chuẩn Đề nói: Huống là trai giới đầy đủ, y pháp đầy đủ để trì tụng, không chuyển, không thân vãng đến Tứ thiền, sẽ được đại Thần túc ấy.)

Sở dĩ thế nên dạy nhiều về Chuẩn Đề Chơn ngôn, khiến người trì tụng. Nếu muốn trì các Chơn ngôn khác, tùy tâm đều được, đừng định chấp một bên nào vậy. (Tuy chuyên tụng nhị chú, trước hết cần phải khởi tâm viên tínNgũ bộ Thần chú, đều là pháp môn thành Phật. Nếu thiếu tin một bộ, trở thành hủy báng Phật pháp). Lại nữa, Chơn ngôn hành giả, mỗi ngày đối trước Kính đàn, như ban đầu trì tụng; hoặc chỉ y như trước tiên, tưởng trên đầu của mình có chữ Phạn LAM: 




tròn sáng như Minh Châu, nhiên hậu mới trì khóa. Lại căn cứ theo kinh Đại Thừa Quán Tưởng Mạn Noa La, kinh Trì Minh Tạng Thành Tựu Nghi Qũy cùng với kinh Tôn Thắng Phật Đảnh Tu Du Dà pháp cùng nhiều kinh khác đến mấy chục bộ, trong đó nói: Hoặc tưởng trên đỉnh đầu của mình có chữ LAM:



biến thành lửa ba góc; đốt hết thân mình từ đỉnh đầu tới chân; khắp pháp giới chỉ thấy thanh tịnh, dù có ngũ vô gián tội, dụng chữ này đốt thân, cũng đều trừ diệt không sót. Tiếp đó, nên tưởng chữ Phạn A: 




sanh thành tự thân. (Chữ A tức là thể; tức vô tướng pháp giới, từ vô tướng đó sanh thành thân hành giả.) Lại một chữ ÁM



mang kết trong thập tự đảnh môn (Nghĩa chữ Ám tức là thể, nước quang minh của mười phương chư Phật để rưới lên đỉnh đầu của Phật tử. Đây là bí mật quán đảnh trong pháp môn, nhiên hậu trì tụng. Hoặc tưởng tự tâm như mặt trăng tròn sáng, thanh tịnhmặt trăng ấy có một chữ Phạn ÁN)




(Trong Nhơn vị của đức Như Lai, nhiều năm tu hành không đắc đạo Bồ đề, sau tu tập quán pháp quán này, đầu hôm liền thành Chánh giác. Chữ Án hàm đủ vô lượng pháp môn. Là mẹ của tất cả Chơn ngôn. Tất cả đức Như Lai đều nhờ quán tưởng chữ này mà được thành Phật.) Hoặc trong tâm Nguyệt luân tưởng một chữ A: 




(Chữ A này là Ty Lô Phật thân, cũng là pháp giới, cũng là Bồ đề tâm, nếu người tưởng niệm thì pháp sinh được vô lượng công đức.) Hoặc tưởng trong tâm Nguyệt luân một chữ Hồng: 




(chữ Hồng tổng nhiếp Kim Cang bộ, tất cả Chơn ngôn. Là chủ thân Kim Cang bộ, cũng là ba giải thoát môn. Nếu thường tưởng niệm, hay trừ tất cả tội chướngthành tựu các công đức.) Hoặc trên lưỡi tưởng một chữ LAM:




 hay chữ HỒNG




tưởng xong rồi sẽ tụng trì. Hoặc tưởng trên cổ mình phát xuất hoa sen lớn, trên hoa sen xuất hiện chữ A: 




lại tưởng chữ A biến thành mặt trăng tròn; tưởng nơi mặt trăng đó biến thành chữ HỒNG: 




chữ Hồng này biến ra năm chùy Kim Cang, lại tưởng cái chày này dời lên trên cái lưỡi, gọi là lưỡi Kim Cang. Nhiên hậu trì tụng (Kế đó, hai tay cũng tưởng chữ A: 




A lại biến thành Nguyệt luânNguyệt luân biến thành HỒNG: 



tự, chữ Hồng biến ra sắc trắng năm chày Kim Cang mới gọi là tay Kim Cang, sau đó kiết tất cả ấn.) Hoặc tưởng ra chín chữ Thánh Phạn Chuẩn Đề mỗi một chữ có các thứ ánh sáng An trong tự thân phần; nghĩa là tưởng chữ ÁNan trên đỉnh đầu;



 chữ Chiếcan nơi hai con mắt,




 chữ LỆan tại cổ, 




chữ CHỦan nơi tâm,

 


Chữ Lệan nơi hai vai,




chữ CHUẨN: an nơi rún,

 



chữ ĐỀ: an nơi hai bắp vế, 




chữ Ta Bà: an nơi hai cổ chân 




và chữ HA: an tại hai bàn chân. 




Tưởng An bố khắp nơi rồi, nhiên hậu trì tụng.(Kinh Trì Minh Tạng Thành Tựu Nghi Quỹ nói: Nếu kẻ nào muốn thành tựu trong pháp Chuẩn Đề Bồ Tát, trước hết quán Chuẩn Đề Bồ Tát căn bổn vi diệu tự luân, trên thân mình mỗi một chữ ở vào một chỗ rõ rệt, thân đời trước ngươi đó có tạo tất cả tội nghiệp, thì cũng được trừ diệt. Phàm có sở cầuquyết định thành tựupháp An bố cửu tự, trong Kinh tạng có nhiều chỗ nói vậy.)

Quán tưởng chữ Phạn đã có công đức rộng như trong các kinh Đà Ra Ni có nói: “Trên đây về quán môn Phạn tự, trong bốn oai nghi thường tư duy đến, rất là nhiệm mầu”. Phàm trong các kinh, tưởng chữ Chơn ngôn đều là chữ Phạn chứ không phải chữ của xứ ta. Cho nên Nhứt Tự Đảnh Luân Vương Nghi Quỹ nói rằng: “Chỗ nói quán các chữ, chỉ là chữ Phạn, không phải chữ ở các địa phương mà có sức đại thần dụng.” Hoặc có người không thể tưởng được chữ Phạn, chỉ nên chuyên tâm trì tụng cũng đủ tất cả tam muội. Cho nên Đại Bi Tâm Kinh nói rằng: “Đà Ra Ni là Thiền định tạng; trăm nghìn tam muội thường hiện tiền.”

Nếu người khẩn thiết trì tụng, hoặc gặp các thứ ma chướng, hoặc bỗng nhiên sợ hãi, hoặc lưỡi khó trì tụng, hoặc thân không an, hoặc ngủ nhiều, giận nhiều, hoặc thấy các tướng lạ, hoặc sanh nghi các Thần chú không muốn trì tụng v.v… Nếu đối trị các điều đó, nên quán tưởng Phạn tự RA: 




hoặc quán chữ LAM: 




hay quán chữ A: … 




Chỉ tùy theo đấy quán tưởng một chữ, cảnh giới kia tự nhiên tiêu diệt. Nếu tâm hay sanh nhiều phân biệt, nên quán Phạn tự SÁI: tức Thánh vô phân biệt




Nếu có trước tâm nhiều, nên quán tưởng HÀM tự: tức nhơn duyên pháp vốn không có vậy. 




(Trên đây ước nơi một mặt mà nói, nếu thật nói ra: Chỉ tùy một chữ mà tất cả đều có công dụng đó, nghĩa là một chữ thật đủ tất cả chữ, là công dụng của tất cả chư Phật, Bồ Tát vậy.)

Hỏi: vì sao Phạn tự đều có bất tư nghì thần dụng như vậy?


Đáp: Nghĩa là mỗi một chữ tức thể là thân tâm của chư Phật, Bồ Tát vậy; tức là thể là ly tướng pháp giới vậy. Lại tức thể là giáo lý, hạnh và quả ấy vậy, sở dĩ thế nên có bất khả tư nghì thần dụng. (Phạn tự: ở Tây Phương vốn có sẵn trong pháp nhĩ. Khi thế giới mới thành, Phạm Vương truyền nói: Không đồng như chữ ở phương này, do Thương Hiệt sáng chế).

Hỏi: Nếu vậy, Phạn tự ở Phương Tây, đều có bất khả tư nghì thần dụng, cớ gì riêng nói chữ trong Chơn ngôn?


Đáp: Nghĩa là chữ trong Chơn ngôn, là pháp nhĩ của chư Phật bất tư nghì lực gia trì vậy. Pháp tánh như vậy đó, riêng có thần dụng. Như ngôn ngữ ở đây chỉ là một. Duy chỉ những câu như “cấp cấp như luật lịnh v.v…Chú hỏa không thiêu được, chú thủy không làm chìm, cho nên làm ngữ chú riêng có công dụng, chẳng phải tất cả ngôn ngữ khác đều có công dụng như vậy. Chữ ở Tây Phương cũng thế …, chữ tuy là một mà làm chữ trong Chơn ngôn, riêng có thần dụng, chẳng phải tất cả chữ đều có thần dụng như vậy.
 

Hỏi: Trên nói đối đàn, kiết ấntụng chú v.v… đâu không phải hữu tướng ư?

Đáp: Viên Tông vô chướng ngại pháp giới, trên thể, vốn đủ vô tận pháp mônThiền tông vô tướng pháp môn chỉ là một trong vô tận môn vậy. Nay Mật tôngĐàn phápthủ ấnChơn ngôn, tức thể lại là vô chướng ngại pháp giới vậy. (Như Hoa Nghiêm kinh Sớ Sao, trong Thập huyền môn, nương sự hiển pháp môn, nói Kim sắc thế giới, tức là bổn tánh là Bát nhã vô phân biệt trí v.v… Nay có người nói rằng: Trì chúkiết ấn, đối đàn là trệ ngại nơi tướng, đây chỉ là trong thiền tôn mà luận. Tức là ly tướng ngoại cầu nơi vô tướngTổ sư vì ngoại đạo mà kiến giải, chứ không phải ý Phật giáo. Lại trong kinh Lăng Nghiêm sớ nói rằng: Trì tụng Thần chú hay trừ được các ác, hay nhóm tập các thiện. Kẻ ngu muội không biết ý chỉ đây; thấy người trì chú thường nổi lên lòng hủy báng, cho đó không phải là kẻ tu hành. Chưa có một Đức Phật nào, không do nơi Thần chú mà được thành đạo để độ chúng sanh vậy, xin mời xét kỹ lại để cải cái lỗi này.

Hỏi: Trên kia dẫn chứng các đại sư, các Ngài đều nói rằng: “Chú là pháp bí mật của chư Phật, không phải chỗ giải của nhơn vị, cớ gì trên kia lại giải chữ A, là Tỳ Lô Phật thân, chữ Hồng là Tam giải thoát môn v.v…

Đáp: Cứ theo Hiền Thủ Bát nhã trong kinh sớ và Thần Biến sớ, các Mật tạng Đà Ra Ni Kinh Ý thì có hai môn:

1)Bát Nhã Thuyết Môn: Chú là mật pháp của chư Phật. Chư Phật truyền nhau, kẻ khác chẳng thông hiểu, chỉ nên trì tụng không cần cưỡng thích.

2)Cưỡng Thuyết Môn: Như trong Chơn ngôn, tùy cử một chữ, hoặc tác nhơn, hoặc tác pháp, bao trùm cả không gian và thời giantự tại giải thoátTóm lại mà nói: Vô tận pháp môn ở trong một chữ tổng giải nói hết, mới là chữ nghĩa của Đà Ra Ni. Đem lời nói này, giả sử mười phương các Đức Phật trải qua hằng sa kiếp, chung nói nghĩa một chữ trong Chơn ngôn cũng không thể hết được, huống nữa người khác, nói đó còn khó, huống chi tham thọ. Sở dĩ đem một phần trong một chữ, hoặc tác nhơn, hoặc tác pháp mà giải nó như trước nó chữ A, là Tỳ Lô Phật thân, Hồng tự là Tam giải thoát môn v.v… Tức là cưỡng nói cái nghĩa của một phần thôi. Còn các chỗ khác có giải thích Chơn ngôn, tự nghĩa, cú nghĩa, đều là cưỡng thuyết giải một phần nhỏ nghĩa vậy. (Nếu ở trong một chữ Chơn ngôn, hoặc chia ra ba nghĩa, mười nghĩa hay một trăm nghĩa v.v… giải thích gọi là nghĩa một mặt vậy.) Trên nói: Duy Phật mới biết, chứ không thông giải cho kẻ khác. Đó là căn cứ vào Mật giáo bổn tôn bất khả thuyết môn mà nói: (Bất khả thuyết môn này là nói đến quả ly ngôn của Hiển giáo Viên tôn, Cưỡng thuyết môn đây tức là nói đến nhân quả của Hiển giáo Viên tôn)

Hỏi rằng: hoặc có chúng sanh muốn trừ các thứ tai, chướng, hoặc muốn tăng trưởng phước huệ, hoặc muốn cầu Thánh quả … là chỉ y Nghi Quỹ như trước trì tụng hay là có phương pháp nào khác?


Đáp rằng: Chỉ y Nghi Quỹ như trước trì tụng. Phàm có sở cầu nhất định thành tựu. Hoặc có muốn tùy việc sở cầu, mỗi pháp làm riêng khác. Nay lược bày pháp thức sau đây: Theo trong kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Tu Hành Nghi Quỹ, Thất Cu Chi Đại Minh Đà Ra Ni kinh, Thần Biến Sớ và các Chơn ngôn Nghi Quỹ … nói: Có năm thức Đàn pháp gọi:

1) Tức Tai Pháp.
2) Tăng Ích Pháp.
3) Kính Ái Pháp.
4) Hàng Phục Pháp.
5) Xuất Thế Gian Pháp.

1)Tức Tai Pháp: (Vì để trừ ác nghiệp, trọng tộiphiền não chướng … Các món tai nạn, quan sự, khẩu thiệt, quỷ mị sở trước, ác tinh lăng bức …) Kẻ hành giả hướng về phương Bắc, tréo gót chân ngồi thẳng; tượng Chuẩn Đề xoay về hướng Nam, đối trước tượng Ngài mà an trí Kính đàn. (Cái kính tròn) Lại tưởng một Đàn tròn sắc trắng, trong cái đàn ấy tưởng khắp chữ PHẠ: 




hoặc chữ VÃM: tôn tượng cúng dường đầy đủ, 




và tự thân hành giả điều tưởng ở trong đàn tròn; hoặc trước tượng chỉ vẽ một đàn tròn cũng được. Quán tưởng đức Chuẩn Đề sắc trắng, hiến cúng hoa quảẩm thực và tự thân y phục đều là sắc trắng, đồ hương dùng bạch đànthiêu hương dùng trầm thủy, thắp đèn dầu Tô du; lấy từ tâm tương ưngLúc đầu hôm ngày mồng một mỗi tháng bắt đầu khởi việc, đến ngày mồng tám là mãn, mỗi ngày ba thời tắm gội, ba thời thay áo, khi đến ngày mãn hoặc đoạn thực (không ăn) hoặc ăn tam bạch thực: nghĩa là sữa, gạo gãy hay cháo. Người không đủ sức tôn tượng cúng dường đầy đủ y phục chỉ vận tâm tưởng cũng được, sau này cứ theo đây mà biết) Nếu khi tụng niệmlần lượt trì tụng như trước, đến Chuẩn Đề chú tụng 108 biến, rồi sau chỉ từ chữ ÁN mà tụng. Diệu Chơn ngôn: Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, gia hô tên … và trừ tai nạn TA-BÀ HA. Nếu tự cầu cho mình, trên chữ TA BÀ HA xưng danh mình và sự việc cầu xin. Nếu vì người khác, cũng xưng rõ tên, họ, sự việc v.v…

2)Tăng Ích Pháp: Vì cầu thêm sự vinh quangtăng trưởng thọ mạng, cầu phước đức thông minhquyến thuộc thế lực, tiền tài phongn thạnh, lúa nếp thành thục, cầu phục tang bảo châuthuốc tiên, năm thần thông v.v… Hành giả hướng về Tây phương; trước tượng Chuẩn Đề an trí Kính đàn (lại tưởng một hình Đàn vuông, sắc vàng trong Đàn ấy có khắp chữ A




hoặc tưởng chữ ÁMTôn tượng cúng dường đầy đủ. 




Tự thân của hành giả đều tưởng ở trong cái đàn vuông, hoặc ở trước tượng vẽ một hình đàn vuông cũng được). Quán tưởng đức Chuẩn Đề sắc vàng, chỗ hiến cúng hoa quả ẩm thực và tự thân y phục … đều là sắc vàng. Đồ hương dụng, bạch đàn gia chút uất kim, thiêu bạch đàn hương, thắp đèn ma du (dầu mè) đem tâm vui mừng được tương ưng. Theo tháng ngày mồng 9, khi mặt trời mới mọc, khởi đầu hành trì cho đến ngày rằm là mãn. Mỗi ngày như trước, ba thời tắm gội thay áo. Đến ngày mãn cứ như trước đoạn thực và tam bạch thựcniệm tụng như trước.

Diệu Chơn ngôn: Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đềgia hộ tên… sở cầu như ý, Ta Bà Ha. (xưng tên và sự việc như bài trước đã nói)

3)Kính Ái Pháp: (Vì cầu tất cả Thánh Hiền gia hộThiên long Bát bộ hoan hỷ, cầu thuyết pháp biện tài, ngôn âm hoà nhã, người nghe hoan hỷ và cầu tất cả mọi người ái kính, bạn hữu tri thức thân cận, oan gia hoà thuận …) Hành giả xây mặt về hướng Tây, ngồi cách thiền tọa, tượng diện hướng Đông, trước tượng Chuẩn Đề an trí Kính đàn. (Lại tưởng một bán nguyệt hình Đàn sắc màu đỏ, trong bán nguyệt hình Đàn ấy, tưởng khắp chữ Hạ:




hoặc chữ Hàm




tôn tượng cúng dường đầy đủ, và tự thân hành giả đều tưởng ở trong bán nguyệt hình đàn ấy. Hoặc trước tượng chỉ vẽ một hình đàn bán nguyệt cũng được.) Quán tưởng đức Chuẩn Đề màu sắc đỏ, thân mặc áo sa lụa, chỗ hiến cúng hoa quảẩm thực và tự thân y phục, thảy đều màu đỏ. Đồ hương dụng uất kim, thiêu hương lấy đinh hương, Tô hạp hương hòa mật để thiêu đốt. Thắp đèn dầu trái cây đem thân tâm hỷ nộ tương ưng. Từ ngày 16 cuối đêm (hậu dạ) là khởi đầu; đến ngày 23 là mãn, mỗi ngày tắm gội đoạn thực hiện tụng, thực hành như pháp trước.

Diệu Chơn ngôn: Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề linh nhứt thiết nhơn ái kính…tên…Ta Bà Ha. (Xưng tên họ tùy theo việc sở cầu, như trước đã bày.)

4)Hàng phục pháp: Để hàng phục tất cả ác độcquỷ thần và ác long thú tổn hoại tất cả hữu tình và điều phục tất cả người ác, không trung với đất nước, sanh tâm phản đạo, diệt Tam-Bảo, hủy Chơn ngôn, hoặc gây chướng ngại. Đối với tất cả người ác như vậy, người trì chú vận đại từ bi tâm, làm được phép này.
 

Nếu vì ích kỷ mà cầu, hoặc có tâm oán cừu mà cầu, mà làm phép này, theo các kinh đã nói, quyết định phản chiêu tai họa, phản đắc suốt đời si ai, học giả nên biết! (nghĩa là mình oán ghét người nào đó, cầu cho họ bệnh chết hay tai họa, thì không thành mà trái lại mình bị mang họa. Chư Phật Bồ Tát không cho phép, nếu cưỡng làm suốt đời bị ngu si.)

Hành giả hướng mặt về phương Nam, dùng phép ngồi tôn cư Tọa (Ngồi chồm hổm, bàn chân bên tả áp qua hai bàn chân bên hữu. Mặt tượng hướng về phương Bắc. Nơi trước tượng Chuẩn Đềan trí Kính đàn. (lại tưởng một cái Đàn tam giác sắc xanh ở trong tam giác Đàn, tưởng khắp chữ Ra




hay chữ Lam




tôn tượng cúng dường đầy đủ và tự thân của hành giả điều tưởng ở trong cái Đàn tam giác cũng được.) Chuẩn Để sắc xanh, hay màu đên mặc áo đen xanh tự thân y phục cũng đều sắc xanh. Hiến cúng hoa sắc xanh, hoa thối, hoa không thơm và Mạn đà la hoa v.v… ẩm thực, dùng thạch lựu làm nước nhựa nhuộm thành sắc đen hay sắc xanh, đồ hương dùng cây bá. Ứ già: dùng phân trâu (phân trâu trắng ở núi tuyết bên Ấn Độ nói ăn toàn cỏ thơm, nên phân nó mịn thơm chứ không phải phân trâu xứ ta). Lấy hoa sắc đen và giới tử Bá mộc làm đồ hương v.v… Mỗi thứ lấy một ít để nơi Ứ già thủy; đốt an tức hương. Thắp đèn dầu hạt cải; lấy phẫn nộ tâm tương ưng. Từ ngày 24 vào lúc giờ ngọ hoặc nửa đêm khởi đầu hành pháp cho đến ngày cuối tháng thì mãn; mỗi ngày tắm gội, đoạn thựcniệm tụng pháp, thực hành như trước.

Diệu Chơn ngôn: Hồng, Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, Hồng Phấn-Tra: (Phấn Tra viết chữ Phạn)




(Nếu các người ác thân tâm không an, hoặc sắp chết, phải khuyên gấp người ấy, phát thiện tâm. Nếu người ấy biết hối lỗi, tự trách vĩnh đoạn ác tâm, thì nên vì họ làm phép Tức Tainiệm tụng, người kia bèn khỏi tai nạn. Trên đây là bốn pháp thành tựu. Nếu muốn nhờ được thành công trong bốn pháp này; cần được dự tu trì Chuẩn Đề Chơn ngôn trước là 50 vạn, 70 vạn, hay 100 vạn biến. Đã thực hành rồi, mới làm bốn pháp, thành tựu được, tùy sự ưa muốn, dù làm một pháp cũng sẽ thành. Thấy trong thời nay hoặc Thích, hoặc Nho vì lợi vì danh mãn năm suốt ngày xu hướng tham lam, dụng hết thân tâm cũng chưa vừa bụng. Khi vô thường đến lại sanh vào xứ thấp hèn. Sao bằng, vâng Thánh ngôn chư Phật tụng bí mật Thần chú, trên trong các pháp Tăng Ích lần lượt thực hành, việc sở cầu quyết định toại tâm; tất cả nghiệp chướng thảy đều tiêu diệtvô thường có đến thì được sanh thắng xứHiện tạivị lai, đều được lợi lạc, há chẳng là điều tốt sao. Có được lợi lớn ấy, cho nên Phật mới dạy.)

5)Xuất thế gian đàn pháp: Vì muốn mau đủ hai món tư lươngPhước đức và trí huệĐốn viên mười món Ba la mậtsiêu việt ba vô số kiếp khắc kỳ trong đời này Thánh quả hiện tiền. Người hành giả ở tại núi non, hang cốc sâu thẳm thù thắnggià lam thanh tịnh. Đem hết lòng Đại Bi, thường ưa lợi lạc vô biên hữu tình, đồng với Chuẩn Đề Vương Bồ TátNương nhờ Đại Binguyện lựchộ trợ các Phật, Bồ Tát. Hạn định bốn tháng bốn ngày trong một thời kỳ, dứt tuyệt không tiếp khách, dứt bặt lời nóiTam Mật tương ưng tâm không gián đoạn; kẻ hành giả mặt hướng về phương Đông. (Các phương khác cũng được, nhưng hướng Đông là tốt hơn hết; hoặc ngồi toàn già, bán già, hay tùy ý ngồi đều được.) Mặt tượng hướng về Tây, nơi trước tượng Chuẩn Đề an trí Kính đàn.

(Trên đảnh hành giả tưởng chữ Lam



biến thành vòng lửa đỏ đốt hết tự thân hữu lậu. Lại tưởng trên một hoa sen lớn có chữ A



sanh thành vô lậu trí thân, lại tưởng chữ Ám:



 quán đảnh rồi. Lại tưởng chữ LAM: 



biến thành lửa lớn đốt cháy thế giới hữu vi này đồng như hỏa kiếp, cháy sạch không sót, chỉ có không tịch. Lại tưởng tượng lập nên Đàn vô vi. Phí dưới hạ phương khắp tưởng chữ Khiếm: 



tạp sắc mà làm Không luân. Nơi trên Không luân tưởng chữ Hàm:



sắc đen, biến thành Phong luân (gió). Trên Phong luân tưởng chữ Lam: 



sắc đỏ, biến thành Hỏa luân (lửa). Trên hỏa luân tưởng khắp chữ Vãm



sắc trắng biến thành Thủy luân. Trên Thủy luân (nước) tưởng khắp chữ A:



sắc vàng, biến ra Kim Cang địa. Trên Kim Cang địa khắp tưởng đại Liên hoa. Trên mỗi hoa sen đều có đức Chuẩn Đề Bồ Tátvô lượng Thánh chúng vi nhiễu (vây quanh) trước mỗi đức Chuẩn Đề, đều có tự thân của hành giả (Chính mình mỗi mỗi thân có hiện ra hoa quả ẩm thực, tràng phan… đầy đủ các món cúng dường đều đối trước Kính đàn Chuẩn ĐềTam mật tương ưng. Nếu hành giả không có tượng Chuẩn Đề và hoa quả ẩm thực cúng dường đầy đủ, chỉ dùng quán tưởng này cũng được thành tựu kiết tường). Nhứt tâm để tưởng đức Chuẩn Đề Bồ Tát, đầy đủ vô tận tướng hảo quang minh, nơi trong tâm Nguyệt luân của Bồ Tát, tưởng có Cửu Thánh Phạn tự Đàn (9 chữ chú Chuẩn Đề). Hành giả tưởng trong tâm Nguyệt luân của mình cũng có chín chữ Phạn Đàn, còn ở tại thân mình, tưởng khắp 9 chữ Thánh Phạn (Tâm Nguyệt luân và tự thân phần tưởng đủ các chữ, như trước đã nói). Các thứ hiến cúng hoa quảẩm thực, hương, đèn, đuốc, nến, …Nơi trong ba pháp: dứt tai ươngtăng íchkính ái đã nói rõ sắc vật đều dùng được. Y phục của hành giả phải được mới, trong sạch mới được vào Đàn pháp (tu). Tóm lại thì loại áo vàng là tốt nhất. Hành giả không cần phải lao hình, khổ nhọc sợ tâm thần tán loạn; đối với bốn oai nghi: đi đứng nằm ngồi đều được Tam mật tu tập. 1)Thân kiết ấn. 2)Miệng đọc chú. 3)Tâm duyên Phạn tự.)

Chỗ thấy, nghe hay biết chỉ quán chữ A: 



Nơi nhứt chơn thanh tịnh pháp giới, thường tu quán hạnh này. Lần lượt nghi quỹ trì tụng như đã nói ở trên, đến Chuẩn Đề Chơn ngôn. Từ đầu vô sốvô ký chuyên tinh niệm tụngCần sách thân tâm chớ nên biếng nhác. Lúc sắp thành tựu, ắt có khởi lên các thứ chướng ngại, nên làm phép: Tức taihàng phục … Tùy theo căn tánh sai khác của hành giả, khoảng thời gian này quyết chứng được Tam muội hiện tiền. Tức ở trong định thấy có vô số Phật hộinghe được pháp âm vi diệu, chứng được Thập Địa Bồ Tát vị. (Một là pháp này, chỉ cầu xuất thế gian, nếu muốn thành tựu trong pháp này, trước hết cần phải trì tụng Chuẩn Đề Chơn ngôn được 500 vạn, 700 vạn, hoặc 1000 vạn biến rồi mới làm pháp này, quyết định có linh nghiệm.)
 


CÁC HÀNH TƯỚNG
THÀNH TỰU LINH NGHIỆM

Chuẩn Đề Đà Ra Ni kinh, Kim Cang Đảnh kinhTô Tất Địa … Cộng lại hơn mười bổn kinh đều nói Chơn ngôn, người hành giả dụng công trì tụng. Hoặc mộng thấy chư Phật, Bồ TátThánh tăngThiên nữ. Hoặc mộng thấy tự thân bay lên hư không một cách tự tại; hoặc vượt qua biển lớn, hoặc trôi nổi trên sông Giang Hà, bay lên lầu các, hoặc lên cây cao thọ, hoặc trèo lên núi trắng, hoặc cỡi sư tử, ngựa, voi trắng, hoặc thấy hoa quả tốt đẹp. Hoặc mộng thấy mặc áo vàng, áo trắng Sa Môn. Hoặc nuốt bạch vật, nhả vật đen. Hoặc ngậm nuốt, mặt trờimặt trăng … tức là cái tướng trạng tiêu diệt tội vô thỉ.

Hoặc chính đương lúc trì tụng thấy các thứ ánh sáng; hoặc thấy khắp chỗ trong hư không có các hoa kỳ lạ, đặc biệt. Hoặc thấy các Phật, Bồ TátThánh tăngThiên Tiên … Hoặc thấy chư Phật Tịnh độ, hoặc thấy tự mình dạo qua các Phật quốc và cúng dường. Hoặc tạm thời gian trải qua nhiều kiếp. Hoặc thấy đèn sáng cao 1 thước, 2 thước cho đến 1 trượng. Hoặc trong lư không có lửa mà tự nhiên có khói. Hoặc thấy Phật tượng, phan cái tự động; hoặc nghe các món mỹ thinh của chư Phật, Bồ Tát.

Hoặc tự biết thân mình nguy nga, vòi vọi cao lớn. Hay răng rụng lại mọc, tóc trắng lại đen; hoặc thân thể trắng nhuận, không sanh rận rệp, hoặc tham sân si tự nhiên tiêu diệt. Hoặc tổng trì bất vong, một chữ năng diễn nhiều nghĩa. Hoặc trí tuệ đốn sanh, tự nhiên thông hiểu tất cả kinh luật luận. Hoặc tất cả tam muội pháp môn tự nhiên hiện tiền. Hoặc phước đức đốn cao, tứ chúng thảy đều quy ngưỡng …(Kinh văn trên đây đã nói: Nay có kẻ Tăng, Nho sĩ sơ lược tham học thiền lý, vừa thấy các tướng ấy cho là yêu dị. Đây chẳng những là hủy báng tối thượng thừa giáo, mà cũng là đắc tội tà kiếnxả tướng, thủ tánh; lại không biết tướng kia, bản lai là tánh vậy.)

Nếu gặp các việc như trên, chỉ là phước huệ tăng trưởng, tướng trạng gần thành tựu; chớ sanh lòng nghi hoặc, chớ khởi niệm thủ xả.

Nên quán những cảnh giới đã gặp đó, đều là A tự: 



hoặc Lam tự: 



hoặc tưởng đều như mộng huyễn hay đều là pháp giới nhứt tâm, nếu được ứng nghiệm như vậy cần phải phát tu, sách tất tam nghiệpgia công trì tụng, không được tuyên nói những cảnh trong Thần chú để lòe gạt người. Chỉ có người đồng đạo, không vì danh lợi kính khen, thì mới được nói sự đó.

Sự thành tựu có 9 phẩm:

1)Hạ phẩm có ba:

a)Nếu hạ phẩm thành tựu, năng nhiếp phục tất cả tứ chúng, phàm có sở cầu, cử ý tùng tâm, tất cả thiên long thường đến thăm hỏi; lại hay hàng phục tất cả trùng thú và quỷ mị …

b)Trung phẩm thành tựu: Có công năng sai sử tất cả thiên longbát bộ hay khai mở tất cả những bảo tàng giấu kín, hoặc cần vào tu la cung, long cung liền được vào đó, đi, ở tùy tâm.

c)Thượng phẩm thành tựu: Liền được tiên đạo, thừa nương hư không bay đi qua lại. Trên trời dưới đất đều được tự tạiThế gian xuất thế gian chẳng việc gì mà không đạt đến.

2)Trung phẩm có ba:

a)Hạ phẩm thành tựu: Liền được làm vua trong các tiên chú, trụ thọ vô số tuổi, phước đức trí huệ ba cõi không thể so kịp.

b)Trung phẩm thành tựu: Liền được thần thông qua lại các thế giới, làm Chuyển luân vương, trụ thọ một kiếp.

c)Thượng phẩm thành tựuHiện chứng từ Sơ địa Bồ Tát trở lên.

3)Thượng phẩm có ba: Nếu hạ phẩm thành tựu: Được đến đệ Ngũ địa Bồ Tát trở lên.

b)Trung phẩm thành tựu: Được đến đệ Bát địa Bồ Tát trở lên.

c)Thượng phẩm thành tựuTam mật biến thành Tam thân. Chỉ trong đời này được chứng quả Vô thượng Bồ đề. Đây là 9 phẩm thành tựu của người trì chú. Nếu cầu thẳng đến thành Phật chẳng cân cầu thành tựu ba hạ phẩm. Còn căn cứ theo Thần Biến Sớ có năm phẩm thành tựu:

1) Hiện đến tín vị.

2) Đến sơ Địa.

3) Đến tứ Địa.

4) Đến bát Địa.

5) Đến thành Phật.

Đó là thuộc về kinh này. Nay thông y theo các kinh cho nên nói chín phẩm, nghĩa là Chuẩn Đề Chơn ngônbao gồm tất cả các bộ Thần chú.

Hỏi: Vì sao biết được Chuẩn Đề gồm các bộ Thần chú?

Đáp: Nghĩa là trong một tạng kinhThần chú không ngoài 25 bộ.

1) Phật bộ: Là các chú của Phật.
2) Liên Hoa bộ: Là các chú của Bồ Tát.
3) Kim Cang bộ: là các chú của Kim Cang thần.
4) Bảo bộ: Là các chủ của chư Thiên.
5) Yết ma bộ: Là chú của các vị quỷ thần.

Năm bộ này mỗi bộ gồm có 5 bộ nhỏ thành 25 bộ. Nay Chuẩn Đề tổng nhiếp 25 bộ cho nên Chuẩn Đề kinh nói: Chỉ có 1 bộ mà nhiếp 25 bộ. Lại nói rằng: Nếu muốn triệu thỉnh 25 bộ thiên ma … chuyên tụng chú này, tùy thỉnh quyết đến. Lại nói rằng: Ngũ bộ Kim Cang Tứ Thiên Vương, đồng kết Tổng trì tam muội giới. Kinh đại Giáo vương có nói: Thất Cu Chi Như Laiba thân khen nói: Chuẩn Đề Bồ Tát Chơn ngôn năng độ tất cả hiền Thánh. Nếu người trì tụng, tất cả sở cầu thảy được thành tựu; không bao lâu chứng được Chuẩn Đề đại quả, vì thế nên biết Chuẩn Đề Chơn ngôn đứng hàng đầu trong Mật tạng, là mẹ của Chơn ngôn, là vua của các Thần chú.

Chuẩn Đề Chơn ngôn tổng nhiếp 25 bộ Chơn ngôn, hoặc dùng hình tượng ấn pháp Phạn tự … mỗi mỗi không đồng. Nay Chuẩn Đề Kính đàn tổng nhiếp tất cả các đàn pháp này vậy. Cho nên Chuẩn Đề kinh nói rằng tổng nhiếp 25 bộ. Đại Mạn Trà La: Phạn ngữ Mạn Trà La nghĩa là Đàn. Cho nên biết Kính đàn rất là tối tôn tối thượng hay diệt tất cả ma chướng, năng sanh tất cả công đức; mắt thấy, thân đeo mang đều được lợi lạc. Cho nên người xưa nói rằng: Đàn ấy là tập vậy, là chỗ vô biên Thánh Hiền tập hội. Như ngọc Phương Châu hứng ánh mặt trăng, liền có nước phát ra, đem kính (hội tụ) hứng ánh mặt trời, liền phát sanh ra lửa. Đá từ thạch dẫn hút kim loại. Hổ phách lượm hạt cải. Cái công dụng thật khó so lường; huống chi là Đàn pháp không thể nghĩ bàn của chư Phật. Nay có kẻ ít nghe thấy, mê mờ không hiểu mật giáo, thấy dùng Kính đàn lại sanh hủy báng. Song ba đời các đức Như Lai, chưa hề có vị Phật nào không theo Đàn phát mà thành Phật đạo, để hóa độ chúng sanh vậy. Mong những ai nghe thấy rộng rãi, hãy mau sửa đổi sự sai lầm đó.

Mật giáo Tâm yếu đến đây là hết.

 


III. HIỂN MẬT SONG BIỆN
(Giải rõ hai pháp Hiển giáo và Mật giáo)


Nếu nương theo Hiển Mật hai tông tu tập, đó là bực thượng căn, nghĩa là tâm tạo pháp giớiđế võng và các thứ quán, miệng tụng Chuẩn đề lục tự, các Thần chú, đây có 2 hạng người;

1 - Người đã tu lâu, Hiển Mật đều tu.

2 - Người mới tu tập, trước tu Hiển giáo Phổ Hiền quán, rồi mới Tam mật gia trì; hoặc dùng Tam mật rồi, vậy sau mới tu quán hai thứ đều được.

Tôi dù tài mọn, tâm còn Hiển Mật song tu cho nên Nhơn Vương Bát Nhã Đà Ra Ni Thích và Nhơn Vương Nghi Quỹ đều cho rằng: “Nếu không tu Tam mật môn, không y Phổ Hiền hạnh nguyện mà được thành Phật là điều không có lý!” Lại kinh Hoa Nghiêm Tự Luân Nghi Quỹ nói rằng: “Muốn đốn nhập Nhứt thừa, phải tu tập quán Tỳ Lô Giá Na Pháp thân; trước nên phát khởi hạnh nguyện Phổ Hiền. Lại lấy Tam Mật gia trì thân tâm, thời hay ngộ nhập được biển đại trí huệ của đưc Văn Thù Sư Lợi; là biết bậc thượng căn cần yếu Hiển Mật song tu. Bậc trung căn tùy lòng ưa muốn; hoặc Hiển hoặc Mật, chia tu một môn đều được. Nhưng Hiển viên Hoa Nghiêm các Phật đều khen ngợi, Bồ Tát đều tuân hànhTây Thiên, Đông Hạ, Thượng Trí, Thượng Hiền đều quy tâm; là đạo giáo rộng hành, nhiều người thấy nghe, chẳng nhờ sự tán dương. Mật viên Thần chú là đnh của chư Phật, là tâm của Bồ TátCông năng rộng lớn, lợi lạc vô biên; vì thời lưu ít biết, nay lược thuật cũng phân làm hai:

A - Thuật Mật chú công đức sâu rộng.
B - Hỏi đáp Mật chú Pháp khí hơn kém.



A. TRƯỚC HẾT TRÌNH BÀY MẬT CHÚ CÔNG ĐỨC SÂU RỘNG.

Lược y Thánh giáo chia ra có mười môn. Rộng lớn thì vô lượng (vì nhiều người không biết Mật giáo là thù thắng thâm sâu cho nên đem mười môn để khen ngợi. Dùng cảnh tỉnh những ai chưa nghe; nếu thật một mặt bỏ Hiển, khen Mật cũng chẳng phải bậc Thông nhơn; kinh Hoa Nghiêm nói: Thọ một Pháp mà thôi bị ma ám ảnh; khuyên trì các kẻ hậu học. Hoặc Hiển, hoặc Mật, hoặc Tánh, hoặc Tướng. Thực hành thì giữ lấy một môn; tin thì cần phải viên thông vô ngại. Chớ đồng với kẻ mù rờ voiđệ tử rửa chân! Tôi từng có bài kệ rằng:

Đại thán thân tuyên ngũ giáo văn.
Thiên môn vạn hộ nhập thiên nhơn.
Biển quán thọ nhứt phi như giả.
Tận thị Phật gia bất liễu nhơn.


Nghĩa:

Đại Thánh nhân tuyên năm thời giáo.
Muôn đường nghìn nẻo vào chơn đạo.
Khắp xem thọ một pháp mà thôi
Đều là người không rõ nhà Phật.

Lại nữa Chuẩn Đề đã tổng nhiếp 25 bộ; tức biết mười môn sau đây đều nói công đức của Chuẩn Đề Đà Ra Ni vậy.)

1) Hộ trì Quốc vương An-Lạc nhơn dân môn.
2) Năng diệt tội chướng, viễn ly quỷ thần môn.
3) Trừ thân tâm bịnh, tăng trưởng phước huệ môn.
4) Phàm sở cầu sự giai bất tư nghì môn.
5) Lợi lạc hữu tình cứu thoát u linh môn.
6) Là chư Phật Mẫu giáo hạnh bổn nguyện môn.
7) Tứ chúng dị tu Kim Cang thủ hộ môn.
8) Linh phàm đồng Phật Như Laiquy mạng môn.
9) Cụ tự tha lực hiện thành Bồ đề môn.
10) Chư Phật Như Lai thượng nãi cầu học môn.

1-Đầu tiên là hộ trì Quốc vương An-Lạc nhân dân: Nghĩa là Bí Mật Tạng Đà Ra Ni kinh đều nói rằng: “Đà Ra Ni năng hộ trì quốc vươngan lành nhân dân”. Cho nên Bảo Tạng Đà Ra Ni kinh nói: “Trong tất cả quốc độ, nơi nào có Đà Ra Ni lưu hành khiến nhơn vương thường được ủng hộthế lực tự tại; cũng hay ủng hộ sự chánh hóa của quốc vương. Có những kẻ như Vương tử, Phi hậu, Tể tướng, Phụ thần, các quan tướng thảy đều được ủng hộ; khiến được an vui, trong nước có nội ngoại oán địch mưu kế gian trá, tật dịch, cơn cẩn, nắng hạn, lụt lội, ác thúđộc long, tất cả việc bất tường như vậy thảy đều đoạn dứt. Lại khiến tiền tài, lúa thóc, phong nhiêu, kho lẫm đầy dẫy, hoa trái vinh thạnh, nhân dân an vui”. Bảo Tạng Đà Ra Ni kinh nói: Đà Ra Ni lưu hành chỗ nào, hay ủng hộ các Quốc vương, Vương tử, Phi hậu, Công chúa, trăm quan, Phụ tướng, khiến cho các tai nạn tiêu diệtsở nguyện viên thànhthiên thần gia hộ; không khiến ma quỷ đến nhiễu não và trong nước lại được mười thứ quả báo tốt:

1) Trong nước không có tha bịnh, oán tặc xâm nhiễu.
2) Trong nước không có tinh tú biến quái mà khởi lên tai nạn.
3) Trong nước không có ác quỷ thần hành các tật dịch, thiện thần hộ vệ, vạn dân an vui.
4) Trong nước không có gió lửa, sương muối, mưa đá các nạn.
5) Trong nước không có kẻ oan gia rình tìm được.
6) Trong nước người không bị các ma bức bách.
7) Trong nước người không có các hoạnh tử.
8) Trong nước các món thóc lúa đầy đủ, trái ngon quả ngọt v.v…
9) Trong nước thiện long, mưa gió thuận thời, không có nắng hạn, bão lụt.
10) Trong nước người không bị các thú dữ như: cọp, beo, sói các ác thú làm tổn hại.

Lại Thất Phật kinh chú nói: Đà Ra Ni, nếu như nhựt nguyệt đi không đều, có thể khiến đi ngay lại. Luá gạo mất mùa, năng khiến được mùa. Đại thần mưu phản, ác tâm tự diệt. Tật dịch binh đao, thảy đều tiêu tán. Lại rằng: Các Nhơn vương muốn được hiện đời an vui, lìa các hoạn nạn. Các vị Quốc vương kia nên cần tâm đọc tụng Đà Ra Ni. Cũng phải khuyên hậu phi, thể nữ và các vương tử … cần tâm tu tập. Lại Thủ Hộ Quốc Giới Chư Đà Ra Ni kinh nói: Vì sao thiên nói hộ nơi quốc vương? Nghĩa là quốc chủ an vui thì vạn dân mới an vui, vì vậy nên nói hộ nơi quốc chủ. Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát kinh nói rằng: Đà Ra Ni năng trừ tất cả hữu tình, tai hoạ, tật dịch, đói kém, giặc cướp binh đao, nắng hạn không đều, tinh tú thất độ. Cũng hay làm tăng trưởng phước đức, cõi nước giàu mạnh, nhân dân an vui, quốc vươngnam nữ đều được trường thọ. Trong kinh Tô Bà Hô Đồng tử nói: Ly ngoài Chơn ngôn không có pháp riêng nào năng ban vui cho chúng sanh được. Rộng như các Đà Ra Ni kinh nói: Xưa có Liêu quốc, Thiên Hậu Hoàng Đếchánh pháp truyền khắp, Phật huệ lưu thôngkiên trì Mật chú đều được thần công, liền được lúa mùa, bắp nếp đầy kho; ngôi báu vững bềnnhân dân an vui lâu dài, chính nhờ sự linh nghiệm của Đà Ra Ni.

2-Năng diệt tội chướng, viễn ly quỷ thần.
 

Kinh Bồ đề Trường Trang Nghiêm Đà Ra Ni, kinh Tối Thắng Tổng Trì, kinh Lầu các Đà Ra Ni … Hơn hai mươi bản kinh đều nói viết, chép Đà Ra Ni để trong tượng Phật, tháp, trong bảo xử, hoặc viết trên tràng phan, trên điện đường, viết trên giấy lụa, vải, tre, hoặc trên vỏ cây hoa, tường vách, bảng mộc. Có chúng sanh được xem thấy hoặc thân tay rờ đến hoặc trong bóng ngã qua, hoặc những bụi trần trên chữ Chơn ngôn gió thổi nơi thân. Hoặc viết chép đeo mang tại đảnh, trên thân, trong áo hoặc viết trên tràng phan, nếu gió thổi phan động, phan kia chỉ chỗ chúng sanh. Hoặc chép lên chuông, trống, linh, mõ, loa, bạt … các tiếng trên vật ấy phát ra, nghe được tiếng ấy Trên đây đã nói: Các chúng sanh dù bị tội ngũ vô gián là nghiệp mà chư Phật cho rằng không sám hối được, cũng thảy đểu diệt tận. Đời sau sanh về các nước Phật, huống chi thân tụng trì đó ư? Cho nên người xưa nói rằng: Tội ngũ nghịch vô gián rất nặng, niệm chú liền tiêu vong. Nghiệp thập ác là cự khiên, vừa nghe liền bay mất. Trong Tùy Cầu Tụng có nói rằng:

"Dầu phạm Ba La thập ác tội,
Sát A La Hán và tôn thân.
Ngũ nghịch căn bổn thất vô giá,
Ưng niệm tùy tiếng liền tiêu diệt.
Chơn ngôn Thánh lực công vô lượng
Nên con xưng tán chẳng nghĩ bàn."


Lại Mạt Pháp Trung Nhứt Tự chú, hết thảy Đà Ra Ni kinh nói: “Người trì chú nơi bốn phương hướngtrong vòng 500 dặm, các ác tinh diệu, quỷ thần, thiên ma… hết thảy chạy tản lạc mà đi. Vị nào có phát thiện tâm thủ hộ thì không đi. Nếu kẻ nào cố ý làm chướng ngại mà ở lại phá, liền bị chư hộ pháp đập bể đầu ra trăm miếng, thân tâm dập nát. Nhờ thế nên hành giả không bị các ma chướng và được đến Bồ đề.

Hỏi: Có người nói sự trì chú hay gây ra ma chướng, nay sao lại nói năng lìa được ma chướng?

Đáp: Đây là lời bàn nói của xóm làng, chứ trong Thánh giáo chẳng có văn này.

Nay Mật bộ các kinh đều nói: Đà Ra Ni năng lìa ma chướng, nơi đây chớ nên luận bàn. Như Hiển giáo trong kinh Pháp Hoa sợ có kẻ giảng tụng tu tập kinh Pháp Hoa có khởi các ma chướng. Cho nên nói phẩm Đà Ra Ni khiến trừ ác ma. Kinh kia nói rằng:

“Nếu chẳng thuận chú ta,
Não loạn người thuyết pháp
Đầu bị phá bảy phần,
Như nhánh cây A lê.”


Lại Thích Ma Ha Diễn Luận: “Dạy người tọa thiền cần phải tụng chú để trừ ma.
Lại trong Chỉ Quán nói: “Nếu các ma chướng làm não loạn sự tọa thiềnhành giả nên tụng Đại Thừa Phương Đẳng và các chú trị ma nói trong kinh giáo. Nếu khi xuất thiền, cũng nên tụng chú.”

Trong kinh Kim Quang Minh: Hàng Thập Địa Bồ Tát còn lấy Thần chú để hộ trì, huống gì phàm phu ư? Cho nên kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Nếu không trì chú mà ngồi đạo tràng, khiến thân tâm kia xa lìa các ma sự lẽ đó không bao giờ đúng.

Lại nói: “Đời mạt thế chúng sanh, muốn tu tam muội sợ đồng tà ma, nên phải khuyến khích trì Thần chú của Ta (Phật). Nếu chưa năng tụng chép nơi thiền đường hay đeo trên thân mình, thì tất cả các ma chướng không dám động đến”. Các văn như vậy, Tạng giáo rất nhiều, hiện thấy người đời vị quỷ thần não hại. Kẻ trì chú còn trừ cho họ được, huống chi tự thân mình lẽ nào ma quỷ dám làm hại ư?

3)Trừ bịnh thân, tâm, tăng trưởng phước huệ:

Kinh Thánh Lục Tự Đà Ra Ni, kinh Phổ Hiền Đà Ra Ni, Văn Thù Nhứt Tự Chú ...hơn mười lăm bổn kinh, đều nói môn hạnh Đà Ra Ni, năng trừ được các món thân tâm bịnh khổ. Nói thân bịnh ấy nghĩa là tất cả các thứ bịnh: nhiệt bịnh, lãnh bịnh, phong bịnh, ngược bịnh, nhãn bịnh, nhĩ bịnh, tỷ bịnh, thiệt bịnh, khẩu bịnh, xỉ bịnh, thần bịnh, hầu bịnh, diện bịnh, đầu bịnh, kỉnh bịnh, hung bịnh, hiếp bịnh, phúc bịnh, thủ bịnh, bối bịnh, yêu bịnh, tất bịnh, cước bịnh, tị bịnh, lỵ bịnh, đàm bịnh, khí bịnh, lâm bịnh, đinh bịnh, thủng bịnh, ban bịnh, tiểu bịnh, dượng bịnh, sang bịnh, cuồng bịnh, điên giản bịnh, quỷ mị bịnh… chỉ nêu ra các bịnh trọng yếu. Hoặc bốn đại làm các thứ bịnh; hoặc ngũ tạng làm các thứ bịnh; hoặc quỷ thần làm ra các bịnh; hoặc những bịnh do túc nghiệp gây ra. Những bịnh như vậy, lấy Thần chú bất tư nghì lực có thể trừ lành. Cho nên kinh Trì Cú Thần chú, kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni đều nói rằng: Đà Ra Ni năng khiến cây khô trở lại sanh hoa trái huống chi là các bịnh hữu tình mà không trừ được sao!

Hỏi: Chơn ngôn hành giả chấp nhận việc gia trì quỷ thần để trị lành bịnh kẻ khác phải không?

Đáp: Kinh Diệu Tý Đồng Tử, kinh Tô Tất Địa … đều nói rằng: Nếu cầu thượng phẩm đại thành tựu, không được dùng Chơn ngôn gia trì quỷ thần cấm các trùng rắn để lành bịnh người khác. Làm việc đó thì hay ngăn ngại việc lớn, kẻ học nên y lời Phật, coi chừng dè dặt. Nếu thật lòng đại bi sâu rộng, ôm lòng Bồ Tát thì không ngăn cản việc đó. Cho nên kinh Quyến Sách nói: Trừ quỷ thần bịnh (bịnh tà) phải tu ba nghiệp thanh tịnh, đủ từ bi tâm; chư vị Bồ Tát mới hay làm việc đó.

Lại tất cả tham, sân, si bịnh tự tiêu diệt; cho nên kinh Bạch Tán Cái Đà Ra Ni nói: “Nếu có túc tập tham tâm không được trừ diệt, thì phải một lòng tụng Thần chú của Ta (Phật). Như cô Ma Đăng Già đã cùng ông A Nan nhiều kiếp ân ái, đem chú lực của Ta, làm cho ái tâm vĩnh đoạntrở thành A la hán.”Còn như cô dâm nữ kia chẳng có tâm tu hành, khi Thần chú thấm vào cũng mau chứng bậc vô học, huống gì bản tâm cầu đạo Bồ đề đấy ư! Lại kinh Đại Bi nói: “Chí tâm xưng niệm Đà Ra Ni, lửa dâm dục diệt, tà tâm loại trừ”. Lại Như Ý Luân và tất cả các kinh Đà Ra Ni nói: “Chơn ngôn hành nhơn hiện năng tăng trưởng tất cả phước huệ. Phàm lời đã nói ra, người đều tin thọ, chỗ dụng y vật, tài bảo, tất cả cử ý tùng tâm. Năng khiếu trong vòng 500 do tuần, người, trời, quỷ thần đều đến quy ngưỡng. Lại tự nhiên thông hiểu tất cả: Kinh, Luật, Luận và các sách vở của thế gian. Hoặc nhớ tất cả không quên điều gì, mỗi ngày nhớ đến hàng nghìn bài tụng”. Cho nên kinh Đại Phật Đảnh nói rằng: “Nếu đọc hoặc tụng Đà Ra Ni ấy, dù các chúng sanh này, tự thân của mình không làm phước nghiệpMười phương Như Lai đã có công đức, tất phải ban cho người này.

Lại nói: Nếu trì Thần chú, không sanh nghi hối, mà kẻ thiện nam đó, do các bậc cha mẹ sanh ra mà tâm không được thông, thì mười phương chư Phật đều nói dối. Lại nói rằng: “Chưa tinh tấn, khiến được tinh tấnVô trí huệ, sẽ được trí huệ … Như chất thuốc dược nhỉ ở thế gian còn hay khiến người trừ bỏ ngủ nghỉ tăng trưởng tinh thần, huống nữa Thần chú lại không sinh trí huệ! Lại kinh Bất Không Quyến Sách Thần chú Tâm nói rằng: Nếu có tứ chúng thọ trì trai giớiChuyên tâm trì tụng Thần chú bảy biến, chẳng xen tạp ngữ khác, phải biết người này hiện đời chắc chắn giữ được hai mươi món lợi thù thắng. Hai mươi món lợi đó là:

1. Thân không bị bịnh tật, được an ổn khoái lạc.
2. Do nghiệp lực đời trước, tuy có sanh bịnh nhưng trị mau lành.
3. Thân thể mềm mại, da thịt sạch sẽ trắng đẹp, mặt mày sáng sủa.
4. Được mọi người thương kính.
5. Mật độ các căn. (tai, mắt…)
6. Được nhiều tiền của quý báutùy ý thọ dụng.
7. Đã có tài bải, vương, giặc, nước, lửa không thể xâm tổn.
8. Sự nghiệp làm ra đều thành tựu tốt.
9. Đã có các món trồng tỉa, không sợ ác long, sương muối, bão lụt thiêu hủy.

10. Nếu có lúa thóc tai họa xâm phạm, nên tụng Thần chú gia trì nơi tro, hoặc nước trải qua 7 biến rồi đem rưới vào ruộng khắp 8 phương đã kiết giới, trên dưới, bấy giờ các tai hoạnh liền được diệt trừ.

11. Không bị những sự bạo ác của quỷ thầnla sát đến hớp hoạt tinh khí.

12. Tất cả hữu tình nghe thấy hoan hỷan lạc thường tôn trọng, không nhàm chán.

13. Không hề sợ sệt tất cả oán cừu.

14. Dù có oán cừu cũng mau tiêu diệt.

15. Người và các kẻ phi nhơn không thể xâm hại.

16. Yếm mịtrù rủa, thuốc độc, yếm chú chẳng dính vào thân.

17. Phiền não , triền cấu không thể hiện hành.

18. Đao độc, nước lửa không thể làm thương hại.

19. Chư Thiênthiện thần thường theo hộ vệ.

20. Đời đời không xa rời từ bi hỷ xả.

Và trong kinh Thập Nhứt Diện Quán Thế Âm Thần chú có nói: Nếu có các tịnh tínthiện namtín nữ thường trì tụng Thần chúhiện thân sẽ thu được mười món thắng lợi; mười món đó là:

1. Thân thường vô bịnh.
2. Thường được mười phương chư Phật nhiếp thọ.
3. Tài bảo, y thực, thọ dụng vô tận.
4. Năng hàng phục kẻ oán địch mà không lo sợ.
5. Khiến các bậc tôn quý cung kính, tin lời.
6. Cổ độ, quỷ mị, không thể trúng thương.
7. Tất cả dao, gậy không thể làm tổn hại.
 

1. Nước không thể nhận chìm.
2. Lửa không đốt được.
3. Lâm chung không bị hoạnh tử.

4-Phàm sở cầu sự, gia bất tư nghì: (Phàm sở cầu việc gì đều không thể nghĩ bàn)

Kinh Quán Tự Tại Nghi Quỹ, kinh Văn Thù Sư Lợi Nghi Quỹ cùng các kinh Nhứt Tự Đảnh Luân … hơn mười bổn kinh đều nói Chơn ngôn hạnh nhơn, khi cầu thành tựu thì dùng bốn thứ vật:

1. Cung tên, rựa búa, câu, luân (bánh xe pháp luân) xử, cảnh (cái kính) hoặc sổ châubình bátca sa, tất cả các vật dụng của chư Tăng.

2. Hùng hoàng, thư hoàng, cũng như các món thuốc khác.

3. Lấy đất trên bờ sông hòa làm bùn dẻo rồi nắn hình sư tử, voi, ngựa, trâu tức loài đi chạy. Hoặc gà, ngỗng, chim, công, sí điểu … là loài bay cùng các hình thú khác.

4. Hoặc đắp vẽ, điêu khắc tất cả hình tượng Phật, Bồ TátMinh Vương; tùy lòng ưa muốn phân ra làm một việc, y pháp thành rồi mà đem để trong Đàn; như pháp tụng chú, khi thấy được ánh lửa xẹt ra; hoặc tay cầm hoạc xoa thân hoặc cỡi lên cùng trợ bạn tri thức bay lên hư không. Hoặc có người thấy thành tựu, hay thấy các người khác được thành tựu; tất cả đều được bay lên hư không, dạo chơi khắp thế giớicúng dường chư Phật, Bồ Tát, đều thọ mạng một kiếp, chứng được Sơ địaBách pháp minh môn. Nếu khi thấy xẹt khói ra, dùng y như trước sẽ được làm vua ở cõi Tiên, trụ thọ muôn muôn tuổi.

Nếu khi hơi nóng phát ra được tất cả nhơn, thiên kính áisở cầu như ý; đây là tướng thành tựu của ba phẩm: thượng, trung, hạ.

(Nếu có lửa sáng phát ra, đó là thượng phẩm; khói phát ra là trung phẩm, hơi nóng phát ra là hạ phẩm). Lại nói rằng: Nếu hỏa quang hiện ra, được tất cả chư Thần thường đền ủng hộ; các chúng Bát bộ thường cung kính.

Dùng tất cả Thần chú đều được tối thắnglinh nghiệm. Nếu tướng khói hiện ra, tùy chỗ đi, ở đều không chướng nạnsở cầu toại tâm. Nếu khí nóng hiện ra: Được tất cả người và quỷ thần đồng tâm kính ái.)

Tây phương có một người được thành tựu thượng phẩm, dẫn 500 người bay lên hư không. Như tại đây (nước Tàu) có ông Hoài Nam Vương luyện chú nấu thuốc, gà chó đến liếm trong vạc đều bay lên hư không. Cho nên mọi người nói rằng: Hoài Nam thành đạo, chó sủa trong mây; Vương Kiều đắc Tiên, Kiếm bay lên trời. Dược lực còn vậy, huống chi Thần chú của Phật không thể nghĩ bàn ư! Thần Biến Sớ nói: Nguời tay cầm Tiên phương, chưa từng hòa hiệp uống dùng; lại hủy báng rằng: ban ngày bay lên hư không lại cho là hư dối, toàn là chuyện không tưởng. Lại Đại Giáo vương các kinh Đà Ra Ni nói : Hoặc khiến người tìm long nữ làm vợ, hàng dược xoa làm tôi tớ, cầm quyến tác vào tu la cung; chú vào tử thi khiến khai mở những của báu dưới đất. Hoặc nói thành nơi Thánh dược; hoặc nói tìm đến tài bảo … trong Hiển giáo, việc này ít nghe. Cho nên Tiên Đức nói: “Ngoài Tam thừa ra, riêng có pháp trì minh đó.”

Hỏi rằng: Bổn ý của chư Phật là khiến đoạn tham, sân tất cả, cớ sao khiến người khởi lòng tham cầu thế sự vậy?

Đáp: Chư Phật có phương tiện độ sanh không thể nghĩ bàn. Nghĩa là có những chúng sanh không chịu cầu thẳng tới đạo Bồ đề; vả lại tùy lòng ưa muốn, khiến trì chú cầu. Do sức Thần chú không thể nghĩ bàn, việc mong cầu được toại lòng; tất cả tội nghiệp được tiêu diệttự nhiên siêu phàm nhập Thánh. Như đứa trẻ con có bịnh, không chịu uống thuốc, thầy thuốc có đủ trí, thoa thuốc nơi vú mẹ; trẻ nít kia nút vào không ngờ đã uống được thuốc hay, trừ được bịnh khổ. Cho nên kinh Quyến Tác Tâm Chú có nói: Nếu có chúng sanh dù đem dua mị để cầu phú danh lợi, nếu được nghe chú này, các chúng sanh đó đời đời kiếp kiếp thành tựu được hưởng phức tụ trí huệThần biến sớ nói cảnh giới Chơn ngônThập địa Bồ Tát còn cho chẳng phải cảnh giới của các Ngài; huống là người trong cõi sinh tử ư! (Có người nói rằng: Đà Ra Ni phần nhiều khiến người có chỗ hy cầu, trở ngược lại gây tổn hại chúng sanh; đây là ly ngoại cầu, lấy vô cầu giống như đoạn kiến ngoại đạo. Nay Phật giáo nói: Trọn ngày cầu đó mà không thấy tướng cầu, là chơn vô cầu, chẳng đồng cây, đá, toàn là không ly cầu vậy. Cho nên Quán Âm Sao nói rằng: Tuy nhiên niệm niệm cầu, mà không có tướng năng cầu và sở cầu. Huống chi các Phật Đại từĐại bi đâu có cố ý làm tổn hại chúng sanh.)

5-Lợi lạc hữu tình cứu thoát u linhĐại Bảo Lầu Các kinh, Đại Bi Tâm kinh cùng Mâu Lê Chú … hơn mười lăm bổn kinh đều nói: Nếu có chúng sanh được thấy thân người trì chú, hoặc nghe âm thanh lời nói, hoặc đi qua trong bóng của họ thì được tận diệt tội thập ácngũ nghịchđời sau được sanh vào các nước Phật. Lại người trì chú, chỗ mắt họ thấy, chỗ thân họ chạm xúc, hết thảy loài hữu tình cũng diệt tất cả tội, đời sau sanh các nước Phật. Những người trì chú khi đi đường gió thổi, hơn gió này chạm vào hành giả rồi cuốn đi; hoặc thân rửa, tắm trong sông, suối nước cuốn đi những gì kỳ cọ; hoặc khi trời mưa, ngửa mặt lên không trung tụng chú, những hạt nước mưa trên không trung cũng thấm nhuần linh lực; hoặc trên đỉnh núi tụng chú, chỗ nào tầm mắt phóng tới tất cả sự kiện trên ảnh hưởng đến các chúng sinh như sau: mọi tội lỗi đều tiêu diệtđời sau được sanh về cõi Tịnh độ của chư Phật, hóa sanh trong hoa sen. Như thế gian chỗ có thuốc độc, đi qua dưới gió, khi gió chạm vào liền bị tổn thương; còn có công lực khó lường huống nữa là Thần chú không thể nghĩ bàn ư! Lại kinh Quyến Tác nói: “Nếu nghe Đà Ra Ni mà sanh hủy báng, cũng vẫn được lợi ích. Như người có ác tâm đi vào trong rừng long não, chiên đàn rồi chặt bẻ, giậm, đạp, làm cho gãy, ngã tất cả, chính thân thể kẻ phá hoại đó cũng dính được cái hương khí thơm tho kia. Cho nên trong Phật Đảnh Tụng có nói: “thần thông thắng hoá, khó nghĩ bàn, Đà Ra Ni môn thật là đệ nhất.” Lại trong kinh Vô Cấu Tịnh Quang, kinh Bất Không Quyến Tác, kinh Phật Đảnh Tôn Thắng, kinh Tùy Cầu … nói “Nếu vong nhơn đã tạo nhiều ác nghiệp, khi chết đọa tam đồChơn ngôn hành giả liền xưng tên tuổi, tộc họ của vong linh rồi chuyên tâm tụng chú, lúc bấy giờ vong ấy sẽ lìa khỏi được ác thú và sanh nơi thiên thượng.

Lại lấy Chơn ngôn chú vào nơi đất cát, hoặc hoa sen rải trên mộ, trên thi hài của vong nhơn liền được sanh về các cõi Tịnh độ của chư Phật. Ngoài ra các y vật, thân phần cốt nhục của vong nhơn mà được bóng người trì chú chói vào cũng được sanh về những nước Phật. Lại chép Đà Ra Ni rồi đặt trên hài cốt của vong nhơn, vong đó liền sanh nơi thiên cung. Cho nên bực Tiên triết nói rằng: Bụi rơi, bóng chói, Thần dạo thiên cung; rải đất, rưới nước, thức lìa ác thú”.

Hỏi: Vong nhơn tạo nghiệp đã thành, bị đọa trong tam đồ vì sao Chơn ngôn hành giả hoặc xưng tên, họ vong nhơn, hoặc chú nguyện vào cát đất để trên mộ, trên thi hài mà lại giúp cho vong đó chuyển khỏi đường ác khổ, còn được vui sướng ở nước Phật ư! Chẳng những kẻ tục sĩ ôm lòng hoài nghi, mà chính các vị xuất gia cũng khó tin.

Đáp: Kẻ trí lấy thí dụ mà được hiểu. Nay xin nêu ra thí dụ này: “Như cấm chủ của người đời; cấm lửa không cháy, cấm dao không đứt, cấm rắn không mổ, còn hay biến hữu độc thành ra hết độc; huống chi là Thần chú của đức Như Lai, không thể đổi khổ được vui đấy ư!” Lại như sách Liệt Tử có nói: “Sư Văn khéo gảy đàn cầm, chính nhằm mùa xuân mà gảy dây Thương để đàn khúc Nam, gió mát thổi đến, cây cỏ thành trái. (Dây Thương âm Kim, thuộc mùa thu, khúc Nam là khúc tháng tám, nhờ dây mà được khí Thu, cỏ cây ra trái) Chánh mùa thu mà gảy giây Giác, đánh khúc Giáp Chung có gió mát trở lại, cây cỏ phát sum xuê. (Giác, âm Mộc, nói thuộc mùa xuân, khúc Giáp Chung thuộc tháng hai, sinh ra được Xuân khí, cây cỏ đơm hoa). Đương mùa hạ mà gảy dây vũ để đánh khúc Hoàng Chung, sương tuyết rơi xuống, sông suối đông lạnh, đóng cứng. (Vũ âm Thủy, thuộc về mùa đông, khúc Hoàng Chung thuộc tháng mười một, nên băng tuyết đóng lại). Mùa đông mà gảy dây chủy, đánh khúc Nhuy Tân mặt trời chiếu sáng rực rỡ, băng cứng tiêu tan (Chủy âm Hỏa thuộc mùa hạn, khúc Nhuy Tân thuộc tháng năm nên được Hạ khí, băng cứng bị tiêu tan). Đây là cái thuật khảy đàn của thế gian còn biến mùa thu làm xuân, mùa đông làm hạ; huống nữa Thần chú của đức Như Lai, không thể nghĩ bàn. Và Thần chú nhiệm mầu lẽ nào lại không biến cải con đường ác khổ để được an vui nước Phật sao !!!



Ngài Trang Tử nói: Ngoài Lục hiệp, Thánh nhơn xét đến nhưng không luận bànKinh Hoa Nghiêm nói: Lượng trí công đức đầy đủ của Thập địa Bồ Tát, thì Cửu địa Bồ Tát không hay biết, huống nữa đức Như Lai là vua trong các Thánh; chỗ có bí mật tâm ấn, đâu có thể lấy vọng tình của phàm phu mà muốn so lường đó ư! Kia như con cá nằm đáy giếng làm sao biết được sự sâu rộng ở biển Đông; chỉ nên tin chắc đó. Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Thần chú nói: Nếu có người trì chú, phàm ra làm việc gì cũng được thành tựu; chỉ cần phải thâm tín không được sanh nghi. Người trì chú đã có công năng lợi lạc hữu tìnhcứu thoát u linh. Như kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà Ra Ni nói: Người nào trì chú sẽ không bị mười lăm món ác tử:
 

1) Không khiến người kia bị chết vì đói khát, khốn khổ.
2) Không bị chết vì côt trói, đánh đập.
3) Không bị oan gia, cừu đối mà chết.
4) Không bị quân trận giết nhau mà chết.
5) Không bị chết vì cọp beo làm hại.
6) Không bị chết vì rắn rít độc cắn.
7) Không bị chết vì nước trôi, lửa cháy.
8) Không bị chết vì trúng độc dược.
9) Không bị trùng độc hại chết.
10) Không bị cuồng loạnthất niệm mà chết.
11) Không bị chết vì núi cây, bờ gộp sập đè.
12) Không bị người ác yếm mị mà chết.
13) Không chết vì tà thần, ác quỷ rình hại.
14) Không bị ác bịnh triền thân mà chết.
15) Không bị phi phản tự hại mà chết.

Lại kinh Bất Không Quyến Thần Chú Tâm nói: Người tụng chú lúc lâm chung được tám món lợi thù thắng:

1) Khi mạng chung, thấy Quán Tự Tại Bồ Tát hiện tướng Tỳ Kheo đến trước mặt an ủi.

2) Mạng chung được an ổn, không bị các sự thống khổ.

3) Lúc sắp mạng chung, mắt không trợn lớn, miệng không hả méo, tay buông thong thả, chân duỗi ngay ngắn, không tiết ra phân nhơ, nước tiểu, không bị trụt, rớt xuống đất.

4) Lúc sắp bỏ mạng, an trụ nhớ chánh niệm, ý không loạn tưởng.
5) Lúc chết không úp mặt.
6) Khi sắp chết được vô tận biện.
7) Khi đã xả mạng rồi, tùy nguyện sanh về các cõi Tịnh độ chư Phật.
8) Thường cùng thiện hữu không xa rời nhau.

Kinh Thập Nhứt Diện Quán Thế Âm Thần chú nói: Người tụng chú được bốn món công đức:

1) Khi lâm chung được thấy chư Phật.
2) Mạng chung không bị đọa vào chốn ác thú.
3) Không nhơn hiểm nạn, tai ách mà chết.
4) Được sanh về cõi Cực Lạc thế giới.
 

6)Chư Phật mẫu giáo hạnh bổn nguyện: Nghĩa là tất cả chư Phật đều từ Đà Ra Ni sanh ra. Kinh Lầu các nói: Chơn ngôn là mẹ của chư Phật, thành chủng tử Phậtnếu không Chơn ngôn thì không thành chánh giác. Tất cả Tam Tạng giáo điển đều do Đà Ra Ni phát xuất cho nên trong kinh Tối Thượng Đại Thừa Bảo Vương nói có bốn thừa:

1) Thinh Văn thừa
2) Duyên Giác thừa.
3) Phương Quảng Đại thừa.

4) Tối Thượng Kim Cang thừa. Đó là Đà Ra Ni tạng vậy. Tất cả pháp đều từ Kim Cang lưu xuất. Thần Biến Sao nói: Nghìn dòng, muôn phát khởi từ núi Tích Thạch, Côn Lôn. Mươì hai phần kinh phát xuất từ Tạng Tổng trì bí Mật; lại muôn hạnh cũng do Đà Ra Ni mà ra. Nghĩa là trong Chơn ngôn, mỗi mỗi một chữ toàn là Vô tướng pháp giới. Muôn hạnh đều từ pháp giới mà ra. Cho nên kinh Trì Minh Tạng Nghi Quỹ nói rằng: Chữ ÁN:




tức vô tướng pháp giới mà ra.

Thần Biến Sớ nói: Vô tướng pháp giới toàn là Chơn ngônChơn ngôn toàn là vô tướng pháp giới; vả lại Chơn ngôn cũng gọi là Tam tạng. Có trì chú ấy đều là Tam tạng. Nghĩa là trong Chơn ngôn mỗi mỗi một chữ đều gm đủ cả Giới, Định, Huệ; đủ muôn hạnh không ra ngoài Lục độLục độ không ly Tam học. Đã nói Chơn ngôn gọi Tam tạng tức biết Chơn ngôn bao gồm muôn hạnh. Chơn ngôn là Tổng hạnh, các pháp môn khác là chi lưu của các hạnh môn.

Hỏi: Trên dẫn kinh nói rằng: Đà Ra Ni là Thiền Định Tạng trăm nghìn tam muội thường hiện tiền. Nay lại nói: Chơn ngôn tổng hành Tam tạng, tức biết Chơn ngôn tổng chứa đủ tất cả môn thiền định. Cớ gì Thiền giả ngày nay không cho trì chú ư?

Đáp: Trong các truyện ký Thiên Trúc và Trung Hoa, xưa nay các thiền đức đêù vâng làm các điều thiện, huông gì Thần chú là vô tướng định môn tâm ấn của Phật ư!

Trong Bạch Tán Cái Đà Ra Ni có bài tụng rằng: Khai vô tướng môn viên tịch tông, tự tự quán chiếu Kim Cang định. Lại nói: “Du Già diệu chỉ truyền tâm ấnMa Ha diễn hạnh tổng trì môn”. Như Long Thọ Bồ Tát trong Truyền Đăng Lục ở Tây Thiên Thiền tông Tổ thứ 14, chép lược ra kinh Tạng Trì Minh, hoằng dương Thần chú Chuẩn Đề. Ngài Nhất Hạnh thiền sư là Thánh nhơn trong xứ Trung Hoa còn tán thuật thần biến Chơn ngôn; Ngài Trí Giả được túc mạng thông, rộng bày nghi quỹ Thần chú. Khế Phù thiền sư có người hỏi Tối Thượng thừa pháp, Ngài liền dạy tụng Mật ngôn; xưa các thiền sư đâu không cho trì chú ư?

Lại như Thiền tôn đã noí: Tất cả các pháp đều là chơn như. Trì tụng Chơn ngôn đâu không phải là chơn như? Nay có thiền sư hoặc giảng sư thấy hoằng truyền Mật chú, sợ mất lợi của mình, tâm sinh tật đố. Vậy xin quý vị hiện tại cũng như vị lai đề phòng ác báo. Cho nên trong kinh Phật Đảnh Vô Cấu Quang Minh Đà Ra Ni có nói: xưa có ông Vô Cấu Bà la môn vì người tuyên nói bí mật Thần chú.
 

Có ông Quang Minh trưởng giả, trước kia có nhiều người quy ngưỡng, sợ mất cái lợi của mình mà sanh ác tâmác tâm hưng khởi, ông liền mắc bịnh lác hủi, thọ đại khổ não. Cho đến khi chết đọa trong vô gián đại địa ngục chịu khổ một kiếp; trở lại đọa vào địa ngục một kiếp nữa mới được sinh làm người mà không có hai con mắt. Vì nhờ duyên lực kiếp trướctrở lại gặp Vô Cấu Bà la môn đang làm bực Tỳ Kheo tuyên nói Mật chú, vừa nghe liền sinh vui mừng rồi nhờ chú lực kia, lúc chết sinh cõi trời … Như trên đã nói: Hủy báng tuy có lợi ích nhưng sự lợi ích đó xa vời lắm và hủy báng đều có tội như ông trưởng giả Quang Minh kia vậy. Bởi vì Mật chú là tâm ấn của chư Phật có vô lượng Minh vươngchư ThiênLong thần thảy đến hộ trì nên khiến người hủy báng hiện đời đa phần mắc bịnh lác hủi, xin mong kẻ thời lưu cần phải dè dặt.

7)-Tứ chúng dị tu Kim Cang thủ hộ: Tất cả tứ chúng chỉ cần hiểu lời nói, đi, đứng, nằm, ngồi trong bốn oai nghi được dễ dàng tụng tập. Lại chỉ miệng tụng được gọi chơn hạnh. Năng trừ phiền nãoan lạc pháp thân không nhờ thông suốt giáo điển, như người bịnh được uống thuốc, uống vào liền trừ bịnh, thân an không cần phải rộng hiểu sách thuốc. Cho nên kinh Bát Nhã nói: Tổng trì cũng như diệu dược, cũng như Thiên cam lồ, năng trị lành các bịnh, uống thứ đó thường an vui. Phật Đảnh Đà Ra Ni sớ nói: Trai giới không bẩm thọ mà được đầy đủ; quả chứng không xa mà có thể được: Tiêu hết nạn, đạt lợi ích. Tự tu hành lại hóa độ các người khác, bởi nhơn của người, bởi quả của người, không có cái gì mà không do điều này mà hiện rõ sự việc được. Lại Mạn Trà La Sớ nói: Ai niệm Thần chú của đức Như Laitâm tâm ám hợp tâm của Như Lai; đọc Mật ngôn của Bồ Tát, nguyện nguyện phù hợp nguyện của Bồ Tátsanh tử nào không lánh xaNiết Bàn nào mà không chứng đắc. Nếu y các tôn khác tu hànhcần yếu phải biết rộng giáo lý của Phật, tỏ ngộ được Chơn tâm, nhiên hậu tu hành mới là chánh hạnh. Nếu chưa ngộ mà tu, thì không phải chánh hạnh.

Như người bịnh ở đời, cần yếu phải biết rộng sách thuốc, hiểu rõ dược tánh mới trị được bịnh, tức khó được trong muôn một vậy. Nên biết Thần chú hạnh môn tóm lược công đức thâm sâu; khắp dẫn bảy chúng mau đến Bồ đề, rất là yếu đạo. Cho nên Ngài Nghĩa Tịnh Tam Tạng nói rằng: Lên trời cỡi rồng, sai sử trăm thần, phương pháp lợi sanh chỉ cần thần giúp đỡ.

Hỏi: Nếu y theo Hiển giáo sanh lòng tin, nương theo lòng tin phát sanh sự hiểu biết. Nương sự hiểu biết phát khởi hạnh tu hànhtu hành thành đắc quả. Nay Mật tông Thần chú không cần sanh hiểu biết, chỉ cần tụng liền được đạo quả. Đã vượt quy tắc thông thường, khó mà sanh lòng tin?

Đáp: Như người bịnh trong thế gian không hiểu phương thuốc, gặp được thuốc thần diệu mà uống, liền được thân tâm an ổn. Nếu đã không hiểu dược tánh, vì sao trừ bịnh thân an? Thuốc đời còn vậy, huống chi Thần chú không thể nghĩ bàn của đức Như Lai và giáo lý của đức Như Lai không thể lấy một lý mà suy. Đã nói Hiển, Mật có khác không thể lấy một mặt mà giải. Khởi Tín Sao nói: Ép chặt trụ đàn mà lên dây, toàn là ngu, ôm cây đợi thỏ chẳng phải kẻ trí. Chỉ nên tin mà tu trì sẽ mau đắc đạo quả. Nếu chẳng sanh lòng tin, thì luống uổng công chẳng ích gì. Kinh Đại Bi Tâm nói: Tụng trì Thần chú thì tất cả mọi sự mong cầu đều được kết quả toại nguyện. Chỉ trừ đối với Thần chú sanh lòng nghi.

Lại nói rằng: Nếu có sanh nghi không tin đó là trong trăm vạn kiếp thường ở chỗ ác đạo, không nghe được Tam-Bảo. Lại các kinh đã nói: Kẻ hành giả đối với Chơn ngôn trong bốn oai nghi, có vô lượng thiên long bát bộ chúng, Kim Cang thiện thần thường theo gia hộ. Cho nên kinh Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni nói tụng trì Đà Ra Ni là Vô úy tạngLong thiênthiện thần thường theo hộ trì. Lại nói rằng: Nếu như pháp tụng chú, tức có tất cả thiện thầnlong vương Kim Cang Mật tích thường theo hộ vệ không xa lìa hai bên người trì chú, như giữ gìn đôi tròng con mắt, như hộ mạng mình. Lại người trì chú: Hoặc ở núi non, đồng vắng, ngủ riêng một mình, các thiện thần sẽ thay nhau ngủ nghỉ để bảo vệ trừ sạch tai chướng. Nếu ở nơi rừng sâu nuí thẳm, quên mất đường đi; các Thiện thầnLong vương hoá làm kẻ thiện nhơn chỉ đường về. Nếu gặp giặc, trận đánh, bị bọn cướp giựt, trốn lạc qua nước khác, thiện thần long vương sẽ dắt dẫn về chỗ cũ. Nếu ở nơi núi rừng, đồng vắng, nước, lửa hiếm ít; Long vương ủng hộ hóa ra nước, lửa. Cho nên kia có bài tụng rằng: Long Thiên chúng Thánh đồng từ hộ, trăm nghìn tam muội đốn huân tu. Lại trong kinh Đại Phật Đảnh Đà Ra Ni nói: Giả sử có chúng sanh nơi tâm tán loạn, miệng vẫn tụng Thần chú, thường được tám vạn bốn ngàn na do thahằng hà sa cu chi Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát chủng tộc, mỗi mỗi đều có các Kim Cang chúng mà làm quyến thuộc, ngày đêm thường theo hộ vệ người này. Dù có ma vương phương tiện rình tìm người kia, cũng không thể được. Các tiểu quỷ thần xa lánh kẻ thiện nhơn này ngoài mươi do tuần. Nếu quyến thuộc của ma muốn rình tìm đến xâm nhiễu kẻ thiện nhân; các chúng Kim Cang lấy chày đập nát đầu, nhỏ như hạt bụiHằng ngày khiến người này làm việc như nguyện. Cho nên lời tụng kia nói: Tám vạn bốn ngàn Kim Cang chúng: Đi, đứng, nằm, ngồi đều theo hộ thân (hành giả).

Mật bộ các kinh rộng nói hộ trì cho người tụng chú; muốn biết rõ, xin xem trong Tạng giáo.

8)-Khiến phàm đồng Phật Như Lai quy mạngChơn ngôn người hành giả, trì tụng Thần chú khi khoá số đã mãn; thân, khẩu, ý ba nghiệp ra làm các việc thiện ác, đều thành pháp môn vô lậu công đức. Cho nên Bạch Tán Cái tụng nói rằng: Tụng xong một vạn tám ngàn biến, biến biến nhập nhập nơi vô tướng định. Tên thành Kiến cố Kim Cang tràng, tự tại được gọi là Phật giữa loài người. Dù cho mắng chửi, chẳng lấy làm lỗi, chư Thiên vẫn nghe tiếng thành ra Phạn âm. Kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni nói rằng: Tụng trì Đà Ra Ni ấy, trong miệng nói ra lời gì, hoặc thiện hay ác tất cả thiên long nghe đều là pháp âm thanh tịnh. Lại có bài kệ rằng:

Thí như thuốc linh đơn;
Điểm sắt thành vàng báu.
Tụng trì Đà Ra Ni;
Biến phàm làm Thánh Hiền.


 

Lại Thần Biến Sớ nói rằng: Chơn ngôn hành giả năng khiến ba nghiệp giống như ba nghiệp của Bổn Tôn. Lại kẻ hành giả trì chú, được quy mạng; cho nên được chư Phật quy mạng. Cho nên Phật Đảnh kệ rằng: Mười phương thế giới các đức Như Lai hộ niệm, cho người đó hộ trì vậy đó.

9)Đầy đủ tha lựctự lực hiện thành Bồ đề:Trong Hiển giáo có Tự lực và Tha lực, hai môn Thập Trụ LuậnNiệm Phật cảnh … nói:

1)Tự lực môn: Nghĩa là tu lục độ hết thảy muôn hạnh gọi là khó hành đạo, như người đi bộ xa nghìn dặm thì phải đến chậm.

2)Tha lực môn: Các pháp môn niệm Phật gọi là dễ hành đạo. Như người đi đường thủy xuôi thuyền thuận gió thì được đến mau.

Nay trong Chơn ngôn bí Mật Thần chú đầy đủ hai lực Tự và Tha. Trong kinh Đại Thừa Bảo Vương Đẳng và các kinh nói: Hành giả Chơn ngôn ngày ngày được đầy đủ Ba la Mậtviên mãn công đức. Lại Phật Đảnh tụng rằng: Không trì trai ấy mà gọi là trì trai, không trì giới mà xưng là trì giới, Tăng pháp 250 giới, Tỳ Kheo Ni phạm Bát Ba La, khi nghe Phật Đảnh Đà Ra Ni liền được cụ túc Thanh Văn giới. Và trong Phật Đảnh Sớ có nói: Hạnh môn Bồ Tát tùy hành thời đủ; nay không hành mà tự đủ, là nhờ sức của Thần chú có đầy đủ muôn hạnh; lời nói này không sai.

Trong Chơn ngôn Tự Lực Môn: Mỗi mỗi một chữ đều là toàn thân của chư Phật. Kinh Mạt Pháp Trung Nhứt Tự Chú nói: Sau khi diệt độ, Ta biến thân làm chú này … tức là Tha Lực môn. Lại có các kinh nói: Chơn ngôn hành giả hiện đời năng thành Vô thượng Bồ đề. Cho nên kinh Lầu các nói rằng: Ta từ nơi vô lượng cu chi trăm ngàn kiếp, tuy hành khổ hạnh mà không được Bồ đề nhờ có vừa nghe Đà Ra Ni thì tăng thêm hạnh tương ưng, liền thành chánh giác. Lại Ngũ tự Đà Ra Ni tụng rằng: Chư Phật sức bổn thệ, hiện thành các việc Thánh. Nghĩa là chỉ ngồi niệm một lần, liền thành tới Chánh giác. Lại tựa Đà Ra Ni nói rằng: Nếu học chứa nơi tâm, tức là ba nghiệp của phàm phu sẽ biến thành chỗ chứa công đức, chỉ trong đời này liền được Bồ đề, không cần lao nhọc tấn tu nhiều kiếp. Lại Thần Biến Sớ nói rằng: Xét Đà Ra Ni làm Đại bất tư nghì thừa, thành Phật thần thông. Nghĩa là y các môn thành Phật, như cỡi dê, ngựa, đi nghìn dặm đường qua thời gian rất lâu mới đến. Y Đà Ra Ni môn thành Phật, như cỡi thần thông đi nghìn dặm đường, móng ý liền đến nơi. Chỗ đến tuy không khác, chỗ nương pháp có chậm, mau vậy. Lại các môn thành Phật như mài vàng đá lấy ngọc Như Ý, tu theo Chơn ngôn thành Phật như sức thần thông lấy ngọc Như Ý. Lại còng nói rằng: Các vị Bồ Tát vì cầu Bồ đề, tuy tu các khổ hạnh khó làm, như sự cứu lửa cháy đầu. Trải qua vô lượng kiếp còn không được thành tựu như vậy. Chơn ngôn hành giả nếu tu không thiếu pháp tắc thì chỉ trong đời này sẽ được thành công, đắc chứng Bồ đề. Cho nên Thần Biến Sao nói: Đốn siêu các địa vị, là ví dụ nhờ các thần thông, mau xa lìa phiền não ràng buộc, là vì nhờ chú thuật, và trong Đại Giáo Vương kinh nói: Nếu không y bí mật khóa tụng tu hành, sẽ không thành công trọn vẹn ở cõi Vô thượng Bồ đề.

10)Chư Phật Như Lai thượng nãi cầu học: (Các Phật Như Lai còn tìm cầu học).

Như Đại thừa Trang Nghiêm Bảo Vương kinh nói: Các Phật cũng cầu Thần chú, huống nữa phàm phu không trì tụng sao? Cho nên các kinh kia noí: Trong một lỗ chân lông của Quán Thế Âm Bồ Tát có vô lượng chư Phật và Bồ TátPhổ Hiền Bồ Tát vào trong một lỗ chân lông của Quán Âmtrải qua mười hai năm mà chẳng biết chừng đổi. Lại nói rằng: Đức Quán Âm có sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni; tất cả Như Lai đều không biết chỗ sở đắc kia. Nhơn vị Bồ Tát làm thế nào mà biết được, đến nỗi nói: Phật trên hoa sen đã thành Phật, để cầu sáu chữ Đại Minh này …

Hỏi: Phật có đủ tất cả trí, đâu không biết Đà Ra Ni đó ư?

Đáp: Có ba nghĩa:

1)Tiêu biểu Đà Ra Ni này là thù thắng thâm sâu, khiến tôn trọng. Như trên đã nói: Phật không biết mà tự cầu đó.

2)Phật trong Quyền giáo: Như A la hán hay Bích chi Phật: Phật trong Quyền giáo không thể biết được Viên tôn Mật chú. Như Tiểu Thừa cực quả không hay biết được pháp thâm sâu của Đại Thừa.

3)Mật tôn Thần chú: Tức thể, lại là Viên viên quả hải cho nên Phật không đắc được. Như Thích Đại Thừa Luận nói: Viên viên quả hải Phật cũng không đắc được. Nay Lục Tự Đại Minh và Chuẩn Đề Thần chú tức thể lại là Viên viên quả hải vậy. (Nay Mật bộ tất cả Thần chú là pháp sở thuyên trong Hiển giáo. Thật mà luận thì hàm đủ năng thuyên trong Hiển giáo. Nay Lục Tự và Chuẩn Đề chính là quả hải trong Hiển giáo).

Hỏi: Kinh Bảo Vương chỉ nói Lục Tự Đại Minh, Phật không biết được, cớ sao nay nói Chuẩn Đề mà Phật cũng không biết được?

Đáp: Kinh Bảo Vương kia nói: Lục Tự Đại Minh rồi, lại liền nói Chuẩn Đề, nên biết Chuẩn Đề là đồng quả hải. Lại Phật chỉ biết Phật nói Chơn ngôn ở trong Ngũ bộPhật bộ gồm thâu tất cả. Nay Chuẩn Đề độc riêng ngoài Ngũ bộ; chẳng chẳng Viên viên quả hải đó là pháp gì?

Lại hỏi: Luận rằng Chơn ngôn chỉ là ngôn giáo năng thuyên tức lấy tiếng danh, câu văn thể là thể, vì sao được cho là viên viên quả hải?

Đáp: Nếu hỏi câu này tức là chưa biết tôn chỉ của Mật giáo. Nay bí Mật Thần chú trong Mật giáo tức là pháp sở thuyên. Như trên đã nói, tất cả lời nóivăn tự thuộc về lời năng thuyên, phần nhiều lấy thinh, danh, cú văn làm thể hoặc lấy Duy Thức là thể. Trong Chung giáo nói: Lấy Vô tánh chơn như làm thể. Trong Đốn giáo lấy Tuyệt đãi chơn như làm thể. Trong Viên giáo nói lấy Thập huyền làm thể hoặc Hải ấn tam muội làm thể. Kia trong ngôn ngữ năng thuyên, trong Hiển giáo còn như vậy, tức là tuyệt đãi chơn như thập huyền môn, huống là Mật tôn Thần chú, chính là Nhứt chơn pháp giới trong Hiển viên ư! Lại Thích Ma Ha Diễn Luậncăn cứ vào năng thuyên trong sanh diệt môn. Hội tướng quy tánh, lấy chơn như làm thể hoặc lấy Nhứt tâm làm thể. Trong chơn như môn, lấy tuyệt đãi chơn như làm thể. Lại Thậm Thâm Huyền Lý LuậnBất Động Bổn Nguyên Luận, trong hai bổn Luận kia, lấy gì làm thể, lấy lý suy gạn, thì biết nói là lấy bất nhị quả hải làm thể. Lời nói năng của nó còn như thế, tức cũng là bất nhị quả hải; huống hồ Lục Tự Đại MinhChuẩn Đề Thần chú, nghĩa là pháp sở thuyên trong hai bổn Luận kia ư! Lại từ xưa, các Ngài đều cho rằng: Bí Mật Thần chú là chư Phật tâm ấm, chỉ có Phật mới biết được chẳng phải nhơn vị có thể hiểu. Lại nay, kinh Bảo Vương nói: Phật cũng không biết Thần chú, nếu chẳng phải viên viên quả hải đó thì còn là gì nữa? Mong các học giả rộng lòng mà thể nhận, chớ vọng tình tự chấp!

Hỏi: Vì sao chư Phật không đắc được viên viên quả hải?

Đáp: Viên viên quả hải là pháp bổn tánh thành tựutiêu biểu chẳng phải chư Phật tu nhơn đoạn chướng mà được; lại tiêu biểu ra ngoài nhân quả vậy. Vì thế nên nói chư Phật không được cầu mà tự cầu đó. Cứ thật mà luận, các Phật đều biết được. Cho nên Ngài Hiền Thủ nói: Tánh đức quả hải, tức là thập Phật cảnh giới.

Hỏi: Lục Tự Đại Minh và Chuẩn Đề Thần chú đã là viên viên quả hải, tức là thập Phật cảnh giới cớ gì phàm phu trì tụng được?

Đáp: Nay trong Mật giáo nói: Lấy Chơn ngôn bất tư nghì lực khiến ba nghiệp phàm phu đồng ba nghiệp của Như Lai mà được trì tụng. Lại Mật tôn Thần chú, nếu y cứ vào chỗ hiểu biết, tức là chỉ cảnh giới của chư Phật. Nay nhơn vị phàm phu tuy chẳng hiểu biết, chỉ nên trì tụng tự nhiên diệt chướng thành đức, siêu phàm nhập Thánh. Riêng một nghĩa này người tục nghe nói mà phát sợ. Lý vượt thường tình; người đã ít nghe, kẻ phàm phu lại khó tin. Những bậc bác học Thượng Trí, xét kỹ nơi đây mà rõ. Ba nghĩa trên đây tùy lòng thủ, xả (lấy hay bỏ).

Mười môn từ trước đến đây lược bày Mật bộ, y tận kinh điển, chẳng phải kẻ hạ ngu này hay biết được Mật chỉ. Cho nên Thần Biến Sớ Sao nói: Chỉ có tay Kim Cang mới sờ được chỗ kín đáo; con mắt liên hoa mới có thể nhìn suốt nơi thâm sâu nhiệm mầu kia.



B. HỎI, ĐÁP MẬT CHÚ PHÁP KHÍ HƠN KÉM.

Hỏi: Mười môn như trên trình bày hết trong Chơn ngôn Viên giáo, là tất cả Chơn ngôn có hơn kém của ngũ giáo mỗi mỗi không đồng, hay là tất cả chơn môn mà không hơn kém đều là Viên giáo ư?

Đáp: Theo Thần Biến Sớ có hai môn:

1)Tùy tha ý môn: Tất cả Chơn ngôn có hơn kém, các bộ không đồng. Lại Ngài Thanh Lương sớ chú, ngoài ba Tạng: Kinh, Luật, Luận lập thêm một tạng bao gồm Đà Ra Ni làm thành bốn tạng. Một trong ba thừa đều có bốn tạng, làm thành mười hai tạng. Trong Tam thừa đều có Đà Ra Ni, Ngũ giáo sau đây mỗi mỗi cũng có Mật chú, như chú trong kinh A Hàm tức là Tiểu giáo. Các chú trong kinh Bát Nhã tức là Thỉ giáo. Chú trong kinh Kim Quang tức là Chung giáo. Chú trong Lăng Già tức là Đốn giáoLục Tự Đại Minh Chơn ngôn và Chuẩn Đề Thần chú trong kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương tức là Viên giáo. (trong mười môn trước đây đã dẫn chứng kinh Đà Ra Ni, phần nhiều là Viên giáo)
 

Phạn ngữ Đà Ra Ni: Tàu dịch là Tổng Trì, là lấy Giáo, Lý, Hạnh, Quả bốn pháp làm thể. Trong Ngũ Giáo Đà Ra Ni, mỗi mỗi bao gồm thâu nhiếp những giáo trong đó gọi là Giáo, Lý, Hạnh, Quả vậy.

(Hơn kém của Ngũ giáo nay nên lên ví dụ này để kẻ mới học được biết):

1) Tiểu giáo như sắt.
2) Thỉ giáo như đồng.
3) Chung giáo như bạc.
4) Đốn giáo như vàng.
5) Viên giáo như ngọc Như ý.

2) Tùy tự ý môn: Tất cả Chơn ngôn lại không hơn kém đều là Tỳ Lô Giá Na Đại Bất Tư Nghì Bí Mật Tâm Ấn. (Trong một đời giáo pháp cho đến Chơn ngôn do quỷ thần nói đều là Tỳ Lô Giá Na Như Lai, muốn pháp môn có lợi ích khắp chúng sanh, quý Ngài đã biến ra các loại quỷ thần mà nói Chơn ngôn được; chứ không phải thập loại quỷ thần mà nói Chơn ngôn được; các loại khác cũng vậy). Lại Hiền Thủ Thanh Lương lấy nghĩa phán giáo trong nhứt kinh gồm nhiều giáo. Tức là biết Chơn ngôn trong tất cả kinh đều là Viên giáo.

Tất cả Chơn ngôn gọi là Tổng Trì, năng tổng hàm nhiếp vô tận Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Thật mà nói: Dùng tất cả hai môn mới phù hợp Phật tâm nhiệm mầu. Cho nên Thần Biến Sớ nói: Chơn ngôn hành giả hay ở trong sai biệt, giải vô sai biệt nghĩa. Ở trong vô sai biệt giải sai biệt nghĩa. Nên biết đó là người khéo đạt tướng Chơn ngôn vậy.

Hỏi: Trên nói Mật bộ là bao la rộng rãithâm sâu, khó suy, khó nghĩ: chưa xét pháp này hợp với căn khí nào.

Đáp: Chỗ hợp căn khí có hai:

1)Tùy tha ý môn: Chơn ngôn đã nói có Ngũ giáo không đồng, căn khí cũng có năm món sai khác, Đà Ra Ni trong ngũ giáo. Các giáo lý trong đó gồm có ba căn: thượng, trung, hạn. Cho nên trong kinh Mạn Trà La Sớ cũng có nói: Đà Ra Ni thông suốt đầy đủ các căn hơn kém.

2)Tùy tự ý môn: Tất cả Đà Ra Ni đều hợp với bất tư nghì viên căn. Cho nên Phật Đảnh tụng nói rằng: Thần thông thắng hóa bất tư nghì; Đà Ra Ni là môn tối đệ nhất. Nay có người chưa từng tán ngưỡng Mật giáo, mà phần nhiều cho rằng Đà Ra Ni tạng chỉ hợp hạ căn. Đây là lời nói rất sai lầm. Nhưng trong các kinh Đà Ra Ni hoặc gọi Tối Thượng Thừa, hoặc gọi Vô thượng Thừa, hoặc gọi Kim Cang Thừa, hoặc gọi Bất Tư Nghì Thừa, đâu có phải là chỉ hợp với hạ căn? Cho nên Ngài Thanh Lương nói: Lấy cạn làm sâu có phải lỗi báng pháp không? Mong các học giả nên lưu tâm, không nên cố chấp cái nghe trước mà sinh ra khinh chê. Ngũ giáo ở Thiên Trúc và Trung Hoa Hiển Mật cả hai đều rõ mới là bậc thông nhơn. Từ trước đến đây Hiển Mật đều giảng giải xong.


 

VI- VUI MỪNG GẶP ĐƯỢC LỜI TRƯỚC THUẬT NÀY

Một đời Thánh Giáo của đức Như Lai không ngoài hai môn Hiển Mật. (Nhơn Vương Kinh Sao nói: Tất cả giáo pháp của Đức Phật, không vượt ra ngoài hai tôn: Hiển Mật.)

Ở trong Hiển giáo tuy Ngũ giáo không đồng mà một bộ kinh Hoa Nghiêm rất tối tôn, tối diệu; là tủy của chư Phật, là tim của Bồ Tát. Đầy đủ cả ba tạng, tổng hàm cả Ngũ giáo. (Phạn bổn có mười vạn bài kệ, ở đây đã dịch ra, 80 quyển, 60 quyển, hoặc 40 quyển… Tuy văn nghĩa rộng rãi bao la, trong đó rất cốt yếu, chỉ riêng một quyển kinh văn, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện là then chốt của Hoa Nghiêm, bộ máy của việc tu hànhđáng khen ngợi và tôn sùng, các đạo lưu ở Ấn Độ đều y theo đây mà tu hành vậy.)

Nơi trong Mật bộ, tuy Ngũ bộ có khác mà một chú Chuẩn Đề rất linh diệu và thù thắng; chú là mẹ của chư Phật, là mạng của Bồ Tát bao gồm đủ Tam Mật, tổng hàm cả ngũ bộ. (Phạn bản có mười bài kệ, phương này đã phiên dịch có các bản của chư Sư,tuy nghĩa thức khác nhau chút ít, nhưng trong đó có phần rất cương yếu, thì bản dịch của Ngài Thiện Vô Úy Tam Tạng đời Đường là lãnh tụ của các Đàn, là thuốc bổ của bảy chúng; có thể truyền thừa và sùng thượng. Các bậc cao đức ở Tây ThiênĐông Độ đều nương nơi đây mà trì tụng vậy.)

Nay hai tôn này chỉ ghi soạn ra đây những pháp linh diệu mà Ngài đã truyền nói. Sau thời kỳ Phật nhập diệt, người đời bây giờ không nghe, không biết (không nghe Hiển viên, không biết Mật viên). Cách 700 năm sau đến khi Ngài Long Thọ ra đời đều hoằng truyền cả hai tông Hiển viên và Mật viên rồi đem lưu hành trong nhơn thế. Nay ở trong đời mạt pháp, được gặp Quốc Vương Thiên Hựu Hoàng Đế Bồ Tát, trong cả nước như được thuốc bổ lưu thông. (Tức là hai giáo Hiển Mật).

Tôi là một vị Tăng tài mọn, may mắn gặp được lòng cảm động vui mừng; ôm hoài bão trọn đời cũng như người bịnh gặp được linh đơn, diệu dược; kẻ nấu bếp được ngọc Như ý Bảo châu, lòng rất vui mừng hớn hở, bèn sáng tác ra bài thơ ngâm ca tụng rằng:

Bao năm hân hạnh, dứt quên sầu,
Gặp hai Hiển Mật toại lòng mong.
Thần công Ngũ bộ đáng nên nhờ.
Mười huyền diệu quán, quán không thôi.
Âm cao giọng thấp Chơn ngôn chuyển.
Thân được đến đi chơi HOA TẠNG.
Pháp giới chúng sanh việc vui mừng.
Chỉ nghi vì bởi tại lòng tin.




CHUẨN ĐỀ SÁM PHÁP


 Kinh dạy:

Trước khi vào Đạo tràng, nên làm lễ PhậtSám hốiTùy hỷKhuyến thỉnhPhát nguyện.

Nên thọ Bồ đề Tâm Giới; năm pháp này là quy tắc sáu thời hành đạo của các vị Bồ Tát.

Đầu tiên vào Đạo tràng quỳ gối, chấp tay, niệm chú dâng hương.

Đọc Tịnh Pháp Giới Chơn ngôn: Án Lam (7 biến)

Tịnh Khẩu Nghiệp Chơn ngôn: Tu Rị, Tu Rị, Ma Ha Tu Rị, Tu Tu Rị Ta Bà Ha. (3 lần).

Tịnh Tam Nghiệp Chơn ngôn: Án, Ta Phạ Bà Phạ Thuật Đà Ta Phạ, Đạt Ma Ta Phạ, Bà Phạ, Thuật Độ Hám (3 lần)

Phổ Cúng Dường Chơn ngôn: Án, Nga Nga Nẵng Tam Bà Phạ Phiệt Nhựt Ra Hộc. (3 lần)

Đọc bài nguyện hương:

Nguyện thử hương hoa vân,
Biến mãn Thập phương giới.
Nhứt nhứt chư Phật độ.
Vô lượng hương trang nghiêm.
Cụ túc Bồ Tát đạo,
Thành tựu Như Lai hương.


Phổ lễ Chơn ngôn: Án Phạ Nhựt Ra Vật. (7 lần)



ĐẢNH LỄ:


 Nhứt tâm đảnh lễ A Súc Thế Tôn
 Nhứt tâm đảnh lễ Bảo Sanh Thế Tôn.
 Nhứt tâm đảnh lễ Quán Tự Tại Vương Thế Tôn.
 Nhứt tâm đảnh lễ Cực Lạc thế giới A Di Đà Thế Tôn.
 Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương Pháp giới chư Phật Thế Tôn.
 Nhứt tâm đảnh lễ Thất Cu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết, Đại Chuẩn Đề, Đà Ra Ni
 Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương Pháp giới Tu đa la Tạng Nhứt thế Đà Ra Ni môn.
 Nhứt tâm đảnh lễ Tỳ Lô Giá Na cung điện trung Thất Cu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Bồ Tát Ma ha tát.
 Nhứt tâm đảnh lễ Quán Tự Tại Bồ Tát Ma ha tát.
 Nhứt tâm đảnh lễ Di Lặc Bồ Tát Ma ha tát.
 Nhứt tâm đảnh lễ Hư Không Tạng Bồ Tát Ma ha tát.
 Nhứt tâm đảnh lễ Phổ Hiền Bồ Tát Ma ha tát.
 Nhứt tâm đảnh lễ Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma ha tát.
 Nhứt tâm đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma ha tát.
 Nhứt tâm đảnh lễ Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma ha tát.
 Nhứt tâm đảnh lễ Địa Tạng Bồ Tát Ma ha tát.
 Nhứt tâm đảnh lễ Vô Năng Thắng Bồ Tát Ma ha tát.
 Nhứt tâm đảnh lễ Đại Thế Chí Bồ Tát Ma ha tát.
 Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương pháp giới Nhứt Thế Bồ Tát Ma ha tát.
 Nhứt tâm đảnh lễ Ma Ha Ca Diếp Tôn giả Chư Đại Thanh Văn Tăng.
 Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương pháp giới Nhứt thế Tam thừa Hiền Thánh Tăng.

Sám hối:

Ngã đệ tử … chí tâm sám hối.
Đại Thánh Chuẩn Đề Tôn.
Nhứt thế Hiền Thánh chúng.
Kim thân nhược tiền thân.
Sở tạo chư ác nghiệp.
Chúng tội giai sám hối. (3 lễ).

Khuyến thỉnh:

Ngã đệ tử … chí tâm khuyến thỉnh
Thập phương nhứt thiết Phật.
Hiện tại thành đạo giả,
Ngã thỉnh chuyển Pháp luân,
An-Lạc chư chúng sanh,
Thập phương nhứt thế Phật,
Nhược dục Bát Niết Bàn.
Ngã kim đầu diện lễ,
Khuyến thỉnh cửu trụ thế (3 lễ).

Tùy hỷ:

Ngã đệ tử … chí tâm tùy hỷ.
Tam thế chư Như Lai,
Bồ Tát Thanh Văn chúng.
Tu tập tam thừa nhơn,
Nãi chí phàm phu loại.
Sở hữu chư phước thiện,
Thí giới thiền định huệ.
Nhẫn nhục tịnh tinh tấn,
Ngã kim giai tùy hỷ (3 lễ)

Phát nguyện:

Ngã đệ tử … chí tâm phát nguyện.
Nguyện chư chúng sanh đẳng,
Tất phát Bồ đề tâm.
Vĩnh đoạn chư phiền não,
Đương chứng nhứt thế trí.
Phục nguyện ngã kim tu,
Chuẩn Đề bí mật hạnh.
Sở cầu chư Tất Địa,
Tùy tâm tốc thành tựu. (3 lễ)

Hồi hướng:

Ngã đệ tử … chí tâm hồi hướng.
Dĩ ngã sở tu phước,
Cập dữ Chơn ngôn hạnh.
Hồi hướng chư hữu tình,
Cọng thành Vô thượng đạo.
Phục dĩ kim sở tu,
Lễ bái cập sám hối.
Khuyến thỉnh tịnh tùy hỷ,
Phát nguyện hồi hướng thiện.
Tất thí dữ chúng sanh,
Vĩnh đoạn tam đồ khổ.
Đồng thú đạo Bồ đề,
Pháp giới chơn như hải. (3 lễ)
Thất Phật Diệt Tội Chơn ngôn (3 lễ)

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ ni nể đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế ta bà ha.



VÀO ĐẠO TRÀNG TRÌ CHÚ CHUẨN ĐỀ
CÁCH NGỒI KIM CANG TỌA


(Nghĩa là lấy bàn chân mặt gác lên trên vế chân trái, hoặc tùy ý ngồi cũng được.)

HAI TAY KIẾT ẤN TAM MUỘI: (Nghĩa là lấy tay mặt duỗi ra, để ngửa lên bàn tay trái, rồi hai ngón tay cái giáo móng với nhau). Để ngang dưới rún, thân cho tề chỉnh, tâm cho an tịnh. Rồi tưởng trên đỉnh đầu ta có một chữ LAM: 



rất tròn sáng như ngọc Minh Châu hay như mặt trăng rằm. Khi tưởng như vậy rồi thì xả ấn Tam Muội trên Đảnh, tay trái kiết ấn Kim Cang Quyền (nghĩa là lấy ngón tay cái bấm vào ngón áp út ở giáp bàn tay, rồi 4 ngón tay kia nắm chặt lại hình như tay cầm cú), rồi tay mặt lần chuỗi mà tụng sau đây:

1) Chú Tịnh Pháp Giới: Án Lam (108 biến)
2) Chú Hộ Thân: Án Xỉ Lâm (108 biến)
3) Chú Lục Tự Đại MinhÁn Ma Ni Bát Di Hồng (108 biến)

Khi tụng xong chú nói trên thì xả ấn Kim Cang Quyền trên đảnh, rồi quỳ xuống tụng bài kệ Chú Chuẩn Đề:

Chuẩn Đề công đức tụ.
Tịch tịnh tâm thường tụng,
Nhứt thiết chư đại nạn
Vô năng xâm thị nhơn,
Thiên thượng cập nhơn gian
Thọ phước như Phật đẳng.
Ngộ thử như ý châu
Định hoạch vô đẳng đẳng.


Nam Mô Thất Cu Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Vương Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần rồi lạy)

Lúc lạy xong, ngồi kiết toàn già và kiết ấn Chuẩn Đề: Lấy ngón áp út và ngón út bên mặt cùng bên trái xỏ lộn với nhau vào trong hai lòng bàn tay, dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ vịn vào lóng đầu của hai ngón tay giữa; còn hai ngón tay cái thì đè lên lóng giữa của ngón tay áp út bên mặt; rồi để ấn ấy ngang ngực. Chí tâm tụng 108 lần chú Chuẩn Đề và chú Đại Luân Nhứt Tự như vầy: Nam Mô Tát Đa Nẫm Tam Miệu Tam Bồ Đề Cu Chi Nẫm, Đát Điệt Tha. Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm (tụng 108 lần) muốn trì tụng nữa hoặc tùy lòng. Nên tụng từ chữ Án trở xuống Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm. Tụng ký số làm chừng như trên, hoặc trì nhiều hơn cũng tốt. Khi niệm đủ rồi muốn nghỉ thì xả ấn lên trên đảnh, kế dùng tay mặt kiết ấn Kim Cang Quyến mà ấn theo thứ tự năm chỗ sau đây:

1) Trên đảnh.
2) Nơi vai bên trái.
3) Ở vai bên mặt
4) Tại ngang ngực.
5) Nơi yết hầu.

Trong lúc tay ấn vào năm chỗ ấy thì miệng đọc Thần chú HỒNG HỒNG cho liên tụcchừng nào đủ năm chỗ rồi, thôi tụng xả ấn lên trên đảnh đầu và tụng:

Ngã kim trì tụng Đại Chuẩn Đề.
Tức phát Bồ đề quảng đại nguyện.
Nguyện ngã định huệ tốc viên minh
Nguyện ngã công đức giai thành tựu,
Nguyện ngã thắng phước biến trang nghiêm,
Nguyện cọng chúng sinh thành Phật đạo.
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp,
Giai do vô thỉ tham sân si,
Tùng thân ngữ ý chi sở sanh,
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
 

A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa bồ tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
 

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

Nam Mô A Di Đà Phật (108 lần)
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (10 lần)
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (10 lần)
Nam Mô Chuẩn Đề Vương Bồ Tát (10 lần)
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (10 lần)
 

Nguyện ngã lâm dục mạng vong chung thời
Tận trừ nhứt thiết chư chướng ngại.
Diện kiến bỉ Phật A Di Đà
Tức đắc vãng sanh Cực Lạc Quốc.
 

Tự Quy Y Phật,
Đương nguyện chúng sanh
Thể giải đại đạo,
Phát Vô thượng tâm.

Tự Quy Y Pháp,
Đương nguyện chúng sanh
Thâm nhập kinh tạng,
Trí huệ như hải.

Tự Quy Y Tăng,
Đương nguyện chúng sanh
Thống lý đại chúng
Nhứt thiết vô ngại.
 
 

Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh,
Giai cọng thành Phật đạo.

HẾT



 CÁCH DÙNG KÍNH ĐÀN


(Mua cái kính tròn mới chưa hề dùng soi mặt đường kính độ 7 phân tây)

Đem kính tròn xông trầm. Đến 10 giờ đêm tối ngày rằm, trước tượng Chuẩn Đề, xây mặt về hướng đông, tướng ngó hướng tâyHành giả ngó hướng đông, cúng dường hương hoa trang nghiêm, xông an tức hương và tịnh thủykiết ấn Chuẩn Đềtrì chú 108 biến vào Kính đàn (tức là thành tựu đàn pháp). Mỗi khi tụng niệm, để kính trước mặt, tụng xong bỏ kính vào cất trong đãy vải, khi đi đâu đem theo để hộ thân.


Phương pháp an bố chín chữ Thánh Phạn Chuẩn Đề:

Hành giả trước khi trì chú, hoặc sau khi trì,
An bố khắp thân phần,
Được vô lượng phước đức.


Hoặc mỗi khi tọa thiền quán tưởng chín chữ an khắp thân thể, rất là mầu nhiệm: ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA-BÀ HA.

ÁN: 



 An ký trên đỉnh đầu,
 Ánh sáng như mặt trăng
 Phóng ra vô lượng quang,
 Trừ diệt tất cả chướng.

CHIẾT: 



  An ký nơi đôi mắt
 Sáng màu như nhật nguyệt
 Chiếu phá mọi u ám
 Phát sinh trí huệ minh.

LỆ:



 An ký nơi cổ,
 Màu sáng cám lưu ly (xanh & đỏ)
 Hiển bày các sắc tướng,
 Đầy đủ Như Lai trí.

CHỦ: 



 An ký tại tim (ngực)
 Màu trong trắng như tơ,
 Khiến tâm được thanh tịnh
 Mau đến đạo Bồ đề.


LỆ:

An ký hai vai,
Sắc màu sáng huỳnh kim,
Người Quán tưởng chữ này
Thường mặc giáp tinh tấn

CHUẨN:


 An ký ở tại rún
Màu sắc vàng trắng đẹp,
Chóng lên diệu đạo tràng
Không thối Bồ đề tâm

ĐỀ:


 An ở hai bắp vế
Sáng màu vàng hơi lợt,
Mau chứng đạo Bồ đề
Được ngồi tòa Kim Cang.



TA-BÀ:



An ở hai bắp chân
Sắc màu đỏ rực rỡ,
Nếu thường quán chữ này
Mau chuyển được Pháp Luân

HA:



 An ở hai bàn chân
Ánh sáng như trăng tròn,
Hành giả Quán chữ này
Mau đến đạo Viên tịch.



NHẬP NHÀ MỚI


Khi cất nhà mới, đến ngày nhập trạch thì lấy một cái chén mới (Lâu nay chưa dùng làm gì) đựng nước trong lấy giữa lòng giếng vào lúc nửa đêm, rồi tay trái kiết ấn Bảo Thủ: (Nghĩa là lấy ngón tay giữa và ngón tay áp út, co lại bấm vào lòng bàn tay, mà giơ ngón tay cái, ngón tay trỏ và ngón út thẳng lên) rồi bưng chén nước, còn tay mặt thì kiết ấn Kiết Tường. (nghĩa là lấy ngón tay cái co lại bấm vào đầu ngón áp út và giơ ngón trỏ, ngón giữa và ngón út lên rồi thư chữ LAM: 




vào trong chén nước, rồi tụng 21 biến Chuẩn Đề có ghi sau đây), rồi đứng giữa nhà, lấy tay nhúng nước đó mà rải về tám phương: trên, dưới. Sau lại dùng son viết chín chữ Phạn của chú Chuẩn Đề như vầy vào giấy vàng. ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA BÀ HA (Viết bằng chữ Phạn)




rồi đem dán đủ trên các cửa và chí tâm cầu nguyện Phật để tụng chú ấy luôn ba đêm, thì nhà ở được yên ổn, không có quỷ quái nhiễu loạn mà lại được sự cát tường. Nhà đương ở mà sanh yêu quái, thì cũng làm như trên.
 



TRỊ QUỶ MỊ LÀM ĐAU ỐM


 
Bị quỷ mị làm cho đau ốm, lấy cành dưng liễu hay nhánh thạch lựu, mắt nhìn vào nhánh cây, miệng chăm tụng chú Chuẩn Đề 108 biến, rồi lấy nhành cây ấy mà đập, phủi trên thân người đau, tức thời lành bịnh.

Nếu người bịnh ở xa, cũng làm phương pháp ấy; gia trì trong nhánh cây 108 biến rồi đêm về phủi trên mình bịnh nhơn.

Trẻ em bị bịnh quan sát (Hay khóc dạ đề)

Mua chỉ ngũ sắc về, bảo một đứa trẻ (gái) nhỏ xe hiệp lại, rồi mình cầm chỉ ấy tụng một biến chú Chuẩn Đề rồi gút lại một gút, cứ tụng và gút luôn cho đủ 21 gút, rồi lấy chỉ đeo vàơ mình đứa nhỏ, bịnh nó sẽ lành ngay. Nếu trong thân người các chi tiết bị đau nhức, nên gia trì Thần chú vào trong tay 21 biến mà xoa vào chỗ đau cũng được lành bịnh. (Muốn trị bịnh theo pháp này, phải là người trì chú tu hành trong thời gian lâu dài mới có hiệu nghiệm.)

(Còn người mới tụng Phạn âm chưa thuần tâm không chuyên nhất, không hiệu nghiệm mà đắc tội nặng. Khi vào tự chữa cho mình lành bịnh rồi mới trị cho người khác).

Người bịnh trầm trọng:

Niệm chú Chuẩn Đề trong chỉ ngũ sắc, cứ niệm mỗi câu gút một gút cho đủ số 108 gút đeo trên cổ bịnh nhân thì được lành bịnh. Nếu người ở xa, nên vẽ hình bịnh nhân rồi nhìn vào hình, xưng tên một lầntrì chú một biến, cho đến khi đủ 108 lần rồi mới lấy chỉ đó đeo vào hình nhơn thì bịnh cũng lành được. Lúc đi đừng, vào rừng, đi thuyền, tàu, phải nên nhớ tụng chú Chuẩn Đề để hộ thân và tránh khỏi tai nạn.


 

CHÚ TỲ LÔ GIÁ NA
PHẬT ĐẠI QUÁN ĐẢNH QUANG CHƠN NGÔN



Bất Không Quyến Thần Biến kinh nói: Nếu các chúng sanh tạo đủ thập ácngũ nghịch, tứ trọng, tội số như vi trần, đầy khắp thế giới. Khi thân hoại mạng chung bị đọa vào ác đạo. Dùng Chơn ngôn này gia trì vào trong đất cát thật sạch cho đủ 108 biến rồi tán rải trên thi hài của vong nhơn hoặc trên mồ mả họ. Vong nhơn kia nếu ở địa ngụcngạ quỷtu lasúc sanh … Nhờ oai lực gia trì của Chơn ngôn, nhờ sức thần thông của chú lực, lúc bấy giờ liền được ánh hào quang của chư Phật rọi vào thân và trừ được các quả báoxả thân khổ sở, vãng sanh về nước Cực Lạc tây phương Liên hoa hóa sanh, thẳng đến thành Phật không còn bị đọa lạc.

Chơn ngôn: Án A Mộ Già Vĩ Lô Tả Nẵng Ma Hạ Mẫu Nại Ra. Mạ Nỉ Bát Nạp Mạ Nhập Phạ Ra Bát Ra Mạt Đa Dã Hồng.




 

PHƯƠNG PHÁP TÁN SA


Lấy cát giữa lòng sông đem về phơi khô, trộn vào ít châu sa, thần sa, để trong chén nước sạch. Tay kiết ấn Bảo Thủ bưng chén cát, còn tay mặt kiết ấn Cát Tường. Mắt ngó vào chén cát, miệng tụng Thần chú Tỳ Lô 108 biến làm chừng, gia trì cho được ba đêm rồi đem cát ấy rải lên mồ mả hay thi hài của người chết trùng, hay chết bất đắc kỳ tử mà vong nhơn không siêu được, làm phương pháp này liền được siêu sanh. Hoặc viết Thần chú này trên vải, giấy vàng rồi đắp lên thi hài người chết, vong họ sẽ nhờ chú lực được siêu sanh cõi Phật.



ĐẠI BẢO QUẢNG BÁT LẦU CÁT
THIỆN TRỤ BÍ MẬT ĐÀ-RA-NI


Nẵng Mồ Tát Phạ Đát Tha Nghiệt Đa Nẫm Án Vĩ Bổ Lã Nghiệt Bệ Mạ Nĩ Bát-ra Bệ Đát Tha Đa Nễ Nại Xả Nỉnh Ma Nĩ Ma Nĩ Tô Bát-ra Bệ Vĩ Ma Lê Ta Nghiệt Ra Nghiễm Tỷ Lệ Hồng Hồng Nhập-phạ Lã Nhập-Phạ Lã Một Đà Vĩ Lô Chỉ Đế Hủng Hế-dạ Địa Sắc-sỉ Đa Nghiệt Bệ Ta-phạ Ha.




Thần chú này viết chữ Phạn trên chuông, trên bảng, trống, trên tràng phan, trên vách tường. Viết trên giấy, vải đeo mang trong thân, viết trên áo mặc vào thân, hoặc đọc hay tụng các chúng hữu tình nghe tiếng, nghe danh liền được tiêu trừ bao tội chướng, ngủ thức được yên ổn thân tâm, không loạn động. Các chúng sanh mắt thấy, tai nghe, thân chạm xúc đều được tiêu tội đắc phước. Ai thường trì, đọc,tụng, thân hiện tại không bị các bịnh khổ, khi lâm chung được sanh về các nước Phật.


 

PHỤ THÍCH


LINH NGHIỆM HẢO MỘNG
CỦA NGƯỜI TRÌ CHÚ CHUẨN ĐỀ


Tụng 10 vạn biến hay 20 vạn biến trong mộng thấy Phật, Bồ Tát liền thổ ra vật đen. (Vật đen tiêu biểu cho ác nghiệp, mửa ra là tướng tội diệt phước sanh, cho nên tự thấy trong miệng thổ ra vật đen hay cơm đen.) Mộng thấy chư Thiên, Đường, Tự Xá (Nhà, chùa, tịnh xá rộng lớn) hoặc trên núi cao, hoặc thấy ở trên cây cao (Không bị tội nghiệp hệ lụy, cho nên được thăng lên. Đây là thiện nhơn được thành tựu nên thấy thiên, đường, tự, xá) Hoặc thấy ở trong ao lớn tắm rửa (là tịch trừ tội cấu được thân thanh tịnh). Hoặc mộng thấy thân bay lên hư không (không bị tội nghiệp ràng buộc cho nên thân khinh cử nhẹ nhàng) hoặc thấy cùng chư Thiên nữ an vui khoái lạc (được sức giữ gìn thiện căn tương ưng nên cùng thấy vui khoái lạc.) Hoặc thấy thuyết pháp (được thị giáo lợi hỉ). Hoặc thấy râu tóc rụng rớt (râu tóc rụng rớt là pháp Tây quốc ngoại đạo, râu tóc rụng rớt đều là tiêu biểu đoạn trừ phiền não căn gốc vậy). Hoặc nói rằng thấy thân mình cạo bỏ râu tóc. Hoặc thấy ăn cơm sữa, uống nước cam lồ (thấy ăn sữa là thành tựu được phước lành của thế gian, uống nước cam lồ là được pháp vị xuất thế). Hoặc vượt qua sông, suối, biển lớn (được khỏi biển khổ). Hoặc leo ngồi trên tòa sư tử (được tòa pháp vương) Hoặc thấy cây Bồ đề (là kiến đạo tướng). Hoặc cỡi thuyền (là nương cỡi thuyền Bát Nhã là được cái tướng đến bờ giải thoát. Tô Đất Địa kinh nói rằng: Hoặc thấy cỡi sư tử, cỡi trâu trắng, nai trắng, ngỗng trắng … đều là cái tướng Tất Địa thành tựu). Hoặc thấy bực Sa Môn (được ly thế nhiễm mà ra khỏi tam giới). Hoặc thấy cư sĩ mặc áo trắng, áo vàng che đầu (Vàng là tiêu biểu chánh, trắng là tiêu biểu tịnh, tức là thấy bạch tịnh Chánh pháp mà phú hộ). Hoặc thấy mặt trờimặt trăng (tiêu biểu phá phiền não vô minh ám). Hoặc thấy người đồng nam đồng nữ (không bị phiền não tham dục làm ô nhiễm). Hoặc thấy trên cây có nhũ quả (nhũ nghĩa là trắng, trắng là thiện nghiệp, nghĩa là được thế, xuất thế gian thiện nghiệp quả báo). Hoặc thấy người hắc trượng phu trong miệng tuôn ra lửa hừng hẫy cùng với họ đấu chiến được thắng (nghĩa là cùng phiền não ma cộng chiến mà đắc thắng). Hoặc thấy ác mã, trâu nước muốn đến húc người trì tụng Thần chú. Người trì chú hoặc đánh, hoặc nạt nộ, sợ mà bỏ chạy (nghĩa là đối với si phiền não ma, mà được thắng vậy). Hoặc ăn sữa cháo, tôn Phạn (là được thượng vị phước thiện thành tựu). Hoặc thấy Tô Ma Na Hoa (hoa đây nói là xứng ý hoa, sắc vàng trắng mà rất thơm, cây cao ba, bốn thước rũ xuống che như tàng lọng. Nghĩa là tiêu biểu sở cầu thiện pháp quyết được xứng ý. Hoặc thấy có mùi hương thơm, bạch hoa hương tiêu biểu cho hương của ngũ phần pháp thân. Nghĩa là được ngũ phần thiện nghiệp). Hoặc thấy quốc vương (nghĩa là được đại nhơn hộ niệm được tôn quý thắng nghiệp).

Nếu không thấy những cảnh giới như vậy, phải biết người đời trước đã tạo ngũ vô gián tội, nên càng phải trì tụng mãn 70 vạn biến, 90 vạn biến, trăm vạn biến liền thấy những cảnh giới như trên, nên biết đó là tội đã diệt liền thành tiên hạnh. Những cảnh giới hảo mộng như trên đây đều là cái tướng chứng nghiệm thành tựu của người hành giả.




CẢM NIỆM


Ai ơi! Xem hết quyển này,
Gắng theo phương pháp trong đây tu hành.
Niệm Phật trì chú Chuẩn Đề,
Sống đời hạnh phúc chết về Tây phương.
Niệm Phật chẳng khác thuyền trôi,
Thuận theo gió nước vào bờ rất mau.
Chuẩn Đề kiêm niệm chẳng lơ,
Khác nào phản lực động cơ đời này.
Quyết đi thì đến không sai,
Chuẩn Đề niệm tụng Thánh thai hiện tiền.
Chuyên cần chí kính lòng thành,
Chuẩn Đề như ý toại lòng ước mong.



Tỳ Khưu THÍCH VIÊN ĐỨC







LỜI CẦU NGUYỆN

VÀ HỒI HƯỚNG

 

Hôm nay công việc phiên dịch và ấn loát đã xong. Con đốt nén hương lòng dâng lên đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật và đức Chuẩn Đề Vương Bồ Tát, đồng thùy gia hộ cho con và các hàng Phật tử hiện đời được phước huệ tăng long Bồ đề tâm tăng trưởng, Kẻ đã mất được nhờ công đức chú lực mà sanh về các cõi Phật

 

Nguyện đem công đức lưu hành pháp Hiển Mật này, hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sanh đồng thành Phật Đạo.

 

Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát



HIỂN MẬT VIÊN THÔNG 

THÀNH PHẬT TÂM YẾU

 

Lời nói đầu của dịch giả
Lời tựa của soạn giả


1. Hiển giáo Tâm yếu

2. Mật giáo Tâm yếu

3. Hiển Mật Song Biên

4. Vui mừng được gặp lời trước thuật

5. Chuẩn Đế Sám Pháp

6. Vào đạo tràng trì Chú Chuẩn Đề

7. Cách dùng kính đàn và an chín chữ chú Chuẩn Đề

8. Nhập nhà mới và trị bệnh

9. Chú Tỳ Lô Giá Na Phật

10. Chú Quảng Bát 


PHỤ THÍCH


LINH NGHIỆM HẢO MỘNG

CỦA NGƯỜI TRÌ CHÚ CHUẨN ĐỀ


CẢM NIỆM


LỜI CẦU NGUYỆN

VÀ HỒI HƯỚNG



THƯỢNG TỌA THÍCH VIÊN ĐỨC (1932–1980)

 

Thượng tọa thế danh là Phạm Văn Nghi, pháp húy Đồng Viên, pháp tự Thông Lợi, pháp hiệu Viên Đức, nối pháp đời thứ 43 Thiền phái Lâm Tế dòng kệ Chúc Thánh. Thượng tọa sinh năm Nhâm Thân (1932) tại làng Định Trung, xã An Định, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ ông Phạm Giãn, một bậc túc nho, thân mẫu là cụ bà Ung Thị Bình, một Phật tử thuần thành.

Năm Nhâm Ngọ 1942, khi lên 11 tuổi, ngài được mẹ đưa đến chùa Bảo Sơn, làng Phong Thăng, huyện Tuy An xin xuất gia tu học và được Hòa thượng Phổ Huệ cho thế phát. Nhờ sự tận tâm giáo huấn của bổn sư, nên sau 5 năm, ngài đã tinh chuyên nhị thời khóa tụng, thông đạt ba cuốn luật Tiểu, và nắm rõ giáo lý cơ bản của Phật đà, nên được Tổ Phổ Huệ chọn cho phép học ngoại điển tại Trường Lương Văn Chánh, Phú Yên.

Nhằm ngày lễ vía đức Quán Thế Âm, 19 tháng 2 năm Canh Dần 1950, ngài được chính thức được làm lễ thế độ do Hòa thượng Thích Phước Trí chứng minh.

Năm Nhâm Thìn 1952, bổn sư Phổ Huệ viên tịch, ngài được Hòa thượng Bảo Sơn tiến cử về tổ đình Phước Sơn và được Hòa thượng Thích Phước Trí chấp nhận làm Y Chỉ sư cho ngài.

Năm Quý Tỵ 1953, ngài được ra học nội điển tại chùa Thập Tháp và sau lại được vào học với Hòa thượng Phước Hộ tại tổ đình Từ Quang, Đá Trắng, Phú Yên.

Năm Giáp Ngọ 1954, ngài được vào Phật học viện Hải Đức-Nha Trang, học ngay chương trình Trung đẳng Phật học. Ngài là một học tăng xuất sắc trong khóa học, nên có lần pháp sư Diễn Bồi, người Trung Quốc, đến giảng tại Phật học viện, gặp ngài là một học tăng, Pháp sư nhận xét: “Thị giáo lợi hỷ, lưu danh hậu thế”. Quả thật, sau này ngài là một trụ cột hoằng truyền Mật giáo tại miền Nam Việt Nam, một bậc thâm uyên Phật học.

Ngày Rằm tháng Chạp năm Định Dậu 1957, Phật học viện Trung Phần mở giới đàn đầu tiên của Phật học viện, ngài được thọ Cụ túc. Giới đàn do Hòa thượng Thích Giác Nhiên, chùa Thiền Tôn-Huế làm Đàn đầu hòa thượng.

Năm Mậu Tuất 1958, ngài tốt nghiệp Cao đẳng Phật học viện Trung Phần-Nha Trang.

Năm Kỷ Hợi 1959, ngài được Tổng hội Phật giáo Trung phần cử làm giảng sư tại Tỉnh hội Phật giáo Dăklăk.

Năm 1960-1962, ngài được Tổng hội Phật giáo cử đảm nhiệm chức vụ Chánh Hội trưởng Phật giáo Dăklăk. Trong thời gian lãnh đạo Phật giáo ở tỉnh nhà, ngài đã không quản gian lao, đem ánh đạo đến tận các vùng sâu vùng xa, khai sơn gần 30 ngôi chùa, cùng với Đại đức Thích Quảng Hương, trụ trì Sắc tứ Khải Đoan bấy giờ, cụ thể các chùa xa như Kiến Đức, Sùng Đức, Phổ Tế… Ngoài ra, ngài còn xây dựng và kiện toàn các cơ sở của giáo hội tại địa phương.

Đầu năm Quý Mão 1963, ngài kiêm giảng sư tại Vạn Giả-Tu Bông-Nha Trang. Nơi đây, ngài đã xây dựng được một Đại bảo tháp thờ kinh Pháp Hoa và một tịnh thất tu niệm Mật tông tại chùa Phật giáo Tu Bông rất nghiêm trang. Cùng năm này, ngài được cử vào làm Chánh Hội trưởng Phật giáo tỉnh Quảng Đức.

Năm Giáp Thìn 1964, ngài khai sơn chùa Dược Sư, phường Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột. Để ủng hộ quê hương, ngài đã cung thỉnh Đại tạng kinh cúng dường Tỉnh hội Phật giáo Phú Yên. Cũng trong năm này, ngài được điều về làm Chánh Đại diện Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Biên Hòa, kiêm Tổng Thư ký Tổng vụ Văn hóa Xã hội, trực thuộc Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại chùa Ấn Quang.

Năm Đinh Mùi 1967, ngài về nhập thất, hành trì Mật tông tại chùa Dược Sư-Buôn Ma Thuột. Cùng năm này, ngài được Hòa thượng Vạn Ân, một bậc chuyên tu bí mật hạnh chùa Hương Tích-Phú Yên trao kinh, truyền ấn Mật giáo. Ngày Rằm tháng 5 năm Đinh Mùi (22 tháng 6 năm 1967), ngài được Hòa thượng Từ Thạnh-chùa Thiền Sơn, trao truyền Ấn khế để hoằng dương Chơn Ngôn tông.

Năm Canh Tuất 1970, ngài được giáo hội cử giữ chức vụ Phó Đặc ủy Phật học vụ trong Tổng Vụ Giáo dục - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Năm Nhâm Tý 1972, ngài đặt đá khởi công trùng tu ngôi chùa Thiền Tịnh, quận 9, Sài Gòn. Ngôi chùa này nguyên của Tổ Bửu Chí (Hòa thượng Cố), một vị cao tăng của tổ đình Phước Sơn vào Nam sáng lập, nhận thấy ngài có đạo lực hoằng pháp độ sanh, Tổ Bửu Chí đã giao lại cho ngài và đi lập ngôi chùa khác hiệu là Linh Sơn ở gần đó để tĩnh tu.

Năm Giáp Dần 1974, ngài từ Buôn Ma Thuột về chùa Thiền Tịnh, tiếp tục hành trì và dịch thuật kinh điển Mật tông và thành lập các đạo tràng Mật giáo, các giới đàn Bồ đề tâm giới, truyền pháp Quán đảnh… Ngoài ra, ngài còn noi gương các bậc cao tăng đời trước đem pháp lực mầu nhiệm chữa trị cho bá tánh khi lâm trọng bệnh.

Nói đến Mật tông, là một pháp môn được truyền thừa cùng thời Thiền tông, Tịnh Độ tông vào Việt Nam. Qua lịch sử Việt Nam, đã có những vị Giác Hải Thiền sư, Vạn Hạnh Thiền sư… là những cao tăng dùng phương tiện thiện xảo độ chúng và ứng dụng con đường ngắn nhất để đạt đạo… Cuối thế kỷ XX, Thượng tọa Viên Đức là một trong các bậc cao tăng uyên thâm về phương pháp truyền thừa này.

Tâm nguyện lớn nhất của Thượng tọa trong đời là muốn gặp gỡ các Lạt ma Tây Tạng, các Pháp sư Mật giáo Nhật Bản để trao đổi các yếu chỉ về Mật giáo, nên ngài mong muốn hành hương một chuyến đến các vùng thánh địa của Chơn Ngôn tông. Nhưng ước vọng chưa thành thì Thượng tọa đã viên tịch trên đường hành hương vào giờ Sửu ngày 12 tháng 7 năm Canh Thân 1980. Trụ thế 49 tuổi đời với 23 hạ lạp. Bảo tháp của Thượng tọa được môn đồ tôn tạo tại chùa Thiền Tịnh, nơi ngài đã hoằng truyền pháp môn Mật tông.

Suốt cuộc đời hành đạo, Thượng tọa Viên Đức đã dịch gần 100 quyển kinh luận Mật giáo. Các dịch phẩm của ngài đã ấn hành để lại cho đời như sau:

 

1.- Hiển Mật Viên Thông Thành Phật Tâm Yếu (2 quyển)

2.- Kinh Chuẩn Đề Đà La Ni Hội Thích (3 quyển)

3.- Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương (4 quyển)

4.- Thất Cu Chi Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh 

      (1 quyển)

5.- Thất Cu Chi Độc Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni   

       Pháp (1 quyển)

6.- Thất Cu Chi Độc Bộ Pháp (1 quyển)

7.- Chuẩn Đề Biệt Pháp (1 quyển)

8.- Kinh Thánh Lục Tự Tăng Thọ Đại Minh Đà La Ni (1 quyển)

9.- Lục Tự Thần Chú Vương Kinh (1 quyển)

10.- Kinh Mạt Pháp Ttrung Nhất Tự Tâm Chú Đà La Ni (1 quyển)

11.- Kinh Văn Thù Sư Lợi Căn Bản Nhất Tự Đà La Ni (1 quyển)

12.- Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát Chú Tạng Trung Nhất Tự Chú   

        Vương Kinh (1 quyển)

13.- Uế Tích Kim Cang Thuyết Thần Thông Đại Mãn Đà La Ni   

        Pháp Thuật Linh Yếu Môn (2 quyển)

14.- Kinh Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng (1 quyển)

15.- Kinh Thất Tinh Chơn Ngôn Thần Chú (1 quyển)

16.- Kinh Nhất Thiết Công Đức Trang Nghiêm Vương

       (1 quyển)

17.- Kinh Trang Nghiêm Vương Đà La Ni (1 quyển)

18.- Kinh Trì Cú Thần Chú (1 quyển)

19.- Kinh Tăng Huệ Đà La Ni (1 quyển)

20.- Quán Thế Âm Thuyết Trừ Nhất Thiết Nhãn Thống Đà La Ni,

21.- Quán Thế Âm Linh Chư Căn Cụ Túc Đà La Ni,

        Hoạch Chư   Thiền

22.- Tam Muội Nhất Thiết Phật Pháp Môn Đà La Ni

        (Đà La Ni Tạp Quyển 7 Trích Lược) (1 quyển)

23.- Phương Pháp Tu Tịnh Tọa (1 quyển)

24.- Văn Thù Sư Lợi Pháp BảoTàng Đà La Ni (1 quyển)

25.- Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni (1 quyển)

26.- Gia Cú Linh Nghiệm Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni Ký,   

        Triều Nghị Đại Phu Kiêm Thị Ngự Sử (1 quyển)

27.- Kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni (4 quyển)

28.- Hoa Tụ Đà La Ni Chú (1 quyển)

29.- Kinh Đại Bảo Quảng Bát Lầu Các Thiện Trụ Bí Mật Đà La   

         Ni (3 quyển)

30.- Kinh Bất Không Quyến Tác Tỳ Lô Giá Na Phật

        Đại Quán Đảnh Quang Chơn Ngôn (1 quyển)

31.- Kinh Đại Kiết Tường Thiên Nữ Thập Nhị Danh Hiệu 

        (1 quyển)

32.- Bồ Đề Tâm Bồ Tát Giới Yết Ma Nghi Quỹ (1 quyển)

33.- Kinh Thất Phật Sở Thuyết Đại Đà La Ni Thần Chú (1 quyển)

34.- Kinh Nhất Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá Lợi Bảo   

        Khiếp Ấn Đà La Ni (1 quyển)

35.- Đại Phật Đảnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát Ra,

Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhất Thiết Chú Vương Đà La Ni Kinh, Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú 

(1 quyển)

36.- Kinh Câu Na Hàm Mâu Ni Phật Thuyết Thần Chú (1 quyển)

37.- Đa Rị Tâm Kinh (1 quyển)

38.- Kinh Đại Luân Kim Cang Tổng Trì Đà La Ni (1 quyển)

39.- Kinh Thâm Sa Đại Tướng Bồ Tát Đà La Ni (1 quyển)

40.- Kinh Thánh Hư Không Tạng Bồ Tát Đà La Ni (1 quyển)

41.- Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Lục Tự Chú Công Năng Pháp Kinh 

       (1 quyển)

42.- Kinh Bảo Tàng Thiên Nữ Đà La Ni Pháp (1 quyển)

43.- Nhứt Kế Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử Đà La Ni Niệm Tụng Nghi  

        Quỹ (1 quyển)

44.- Kinh Thường Cù Lợi Độc Nữ Đà La Ni Thần Chú (1 quyển)

45.- Đại Như Y Bảo Châu Luân Ngưu Vương Thủ Hộ Thần Chú

       Kinh (1 quyển)

46.- Kinh Trừ Bách Bịnh Chư Độc Đà La Ni (1 quyển)

47.- Mã Minh Bồ Tát Đại Thần Kực Vô Tỷ Nghiệm Pháp Niệm

       Tụng Nghi Quỹ (1 quyển)

48.- Kinh Ma Lị Chi Thiên Bồ Tát Đà La Ni (1 quyển)

49.- Kinh Bạt Trừ Tội Chướng Chú (1 quyển)

50.- Kinh Túc Mạng Trí Đà La Ni (1 quyển)

51.- Kinh Trừ Tặc Nạn Đà La Ni (1 quyển)

52.- Kinh Nhứt Thiết Như Lai Danh Hiệu Đà La Ni (1 quyển)

53.- Kinh Bí Mật Bát Danh Đà La Ni (1 quyển)

54.- Kinh Bảo Sanh Đà La Ni (1 quyển)

55.- Kinh Bảo Hiền Đà La Ni (1 quyển)

56.- Kinh Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Đà La Ni Thần Chú (1 quyển)

57.- Kim Cang Đảnh Du Già Tối Thắng Bí Mật Thành Phật Tùy

       Cầu Tức Đắc Thần Biến Gia Trì Thành Tựu Đà La Ni Nghi   

         Quỹ (1 quyển)

58.- Kinh Thánh Tối Thắng Đà La Ni (1 quyển)

59.- Kinh Liên Hoa Nhãn Đà La Ni (1 quyển)

60.- Kinh Thắng Tràng Anh Lạc Đà La Ni (1 quyển)

61.- Kinh Toái Trừ Chư Ác Đà La Ni (1 quyển)

62.- Kinh Tôn Thắng Đại Minh Vương Đà La Ni (1 quyển)

63.- Kinh Kim Thân Đà La Ni (1 quyển)

64.- Kinh Tối Thắng Y Đà La Pháp (1 quyển)

65.- Kinh Đại Thừa Thành Vô Lượng Thọ Quyết Đinh Quang

       Minh Vương Như Lai Đà La Ni (1 quyển)

66.- Kinh Thập Nhất Diện Thần Chú Tâm (1 quyển)

67.- Kinh Bất Không Quyến Tác Thần Chú Tâm (1 quyển)

68.- Thành Tựu Mộng Tướng Y Pháp (1 quyển)

69.- Vô Lượng Thọ Như Lai Tu Quán Hạnh Cúng Dường Nghi   

        Quỹ (1 quyển)

70.- Kinh Bồ Đề Trường Trang Nghiêm Đà La Ni (1 quyển)

71.- Kinh Bí Mật Tạng Quán Thế Âm Bồ Tát Như Y Luân Đà La Ni

       Thần Chú (1 quyển)

72.- Kinh Tỳ Sa Môn Thiên Vương (1 quyển)

73.- Kinh Vũ Bảo Đà La Ni (1 quyển)

74.- Kinh Đại Kết Giới Thần Chú (1 quyển)

75.- Kinh Trì Minh Tạng Bát Đại Tổng Trì Vương (1 quyển)

76.- Kiên Lao Địa Thần Nghi Quỹ (1 quyển)

77.- Kinh Cửu Phẩm Vãng Sinh A Di Đà Tam Ma Địa Tập Đà La

         Ni (1 quyển)

78.- Nhất Thiết Phật Nhiếp Tương Ưng Đại Giáo Vương Kinh,

        Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Niệm Tụng Nghi Quỹ (1 quyển)

79.- Kinh Quán Tự Tại Bồ Tát Tùy Tâm Chú (1 quyển)

80.- Cuộc Đời Ngài Huyền Trang (1 quyển)

81.- Phật Đảnh Phóng Vô Cấu Quang Minh Nhập Phổ

82.- Môn Quán Sát Nhất Thiết Như Lai Tâm Đà La Ni (1 quyển)

83.- Ma Hê Thủ La Thiên Kinh (1 quyển)

 

 

 

TIỂU SỬ DANH TĂNG VIỆT NAM

 

THÍCH ĐỒNG BỔN (Chủ biên)


Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI   

AUDIO

Diễn đọc: Huệ Tâm Jun 12, 2023


Phẩm Nhập Pháp Giới


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng



HOA NGHIÊM NGUYÊN NHÂN LUẬN


KHÁNH-ANH SA MÔM, CHÙA PHƯỚC-HẬU, LÀNG BÌNH-NINH,

TÒNG BÌNH-LỄ, TRÀ-ÔN CẦN-THƠ NAM-VIỆT, DỊCH RA CHỮ VIỆT.


NGÀY RẰM THÁNG 5, NĂM 1952 NHÂM-THÌN, PHẬT LỊCH 2515



PHỤ  LỤC

 

CHÚ CHUẨN ĐỀ

NGHI TẮC VỀ SỰ LẦN CHUỖI













Án Ma Ni Bát Di Hồng

( OM MANI PADME HUM)

Tam Tạng Pháp Sư Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng vào năm 1971

 

Nếu quý vị có thể thường xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có công năng biến đổi sự tối tăm của sáu nẻo luân hồi trở nên sáng rạng

Sáu chữ nầy gọi là “Chú Lục Tự Đại Minh”, mỗi chữ đều có thể phóng ra một luồng ánh sáng.

Mật tông chuyên nghiên cứu về lời và ý nghĩa của thần chú. Phật giáo phân thành năm tông phái là: Thiền tông, Giáo tông, Luật tông, Mật tông và Tịnh Độ tông. Thiền tông chuyên về tham thiền tĩnh tọa; Giáo tông chuyên về giảng kinh thuyết pháp; Luật tông thì tu trì, nghiêm tịnh giới luật, làm mô phạm trong ba cõi. Về Mật tông, thì “mật” là bí mật, là “không biết lẫn nhau” (hỗ bất tương tri). Tịnh Độ tông thì chuyên trì danh hiệu, niệm sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật”.

Trong năm tông phái nầy, có người cho rằng Thiền tông là hơn hết; có người lại cho Giáo tông hay nhất; lại có người cho Luật tông là đứng đầu; người tu theo Mật tông thì nói Mật tông của mình là cao siêu nhất; người tu theo pháp môn Tịnh Độ thì nói pháp môn Tịnh Độ là số một, không gì sánh bằng. Trên thực tế, các pháp đều bình đẳng, không có cao thấp—“thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ”. Cho rằng một pháp nào đó tối thắng, chẳng qua chỉ là cái thấy của cá nhân, mình thích tông nào thì cho tông đó là nhất.

Bây giờ chúng ta đang nói về Mật tông. Theo cách hiểu thông thường của mọi người thì Mật tông là Lạt Ma giáo. Kỳ thực, Mật tông không phải là cái gì bí mật. Trong Hiển giáo thì Hiển-Mật viên thông—trong Hiển giáo cũng có Mật giáo; như Chú Đại Bi, Chú Lục Tự Đại Minh đều là “mật” cả. Chú Lăng Nghiêm lại càng “mật” hơn nữa. Nên nói “mật” chính là không biết lẫn nhau.

Người không hiểu thì cho rằng cái gì bí mật mới tốt nhất, vì nó không được truyền bá công khai. Có một số người không hiểu Phật Pháp, lại càng làm ra vẻ thần bí, bảo: “Cái nầy không thể giảng cho ông nghe được. Mật tông của tôi ấy à, không thể giảng cho ông nghe được đâu!” Quý vị không thể giảng cho người khác nghe, thì tại sao quý vị lại đề cập đến nó chứ? Tại sao quý vị lại nói: “Tôi không thể giảng cho ông nghe”? Nếu thật sự là Mật tông thì phải không nói gì cả mới đúng, tại sao quý vị còn nói: “Tôi không thể giảng cho ông nghe”? Quý vị nói rằng mình không thể giảng, song, như thế có phải là quý vị đã giảng rồi không? Đó chính là quý vị đã giảng rồi đấy! Thế tại sao còn nói là không thể giảng được? Là vì không hiểu rõ Phật Pháp, căn bản không hiểu được cái gì gọi là “Mật Tông”!

Bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị nghe về Mật tông. Lời chú, thật ra không có gì bí mật cả. Sở dĩ được gọi là Mật tông, vì khi quý vị trì tụng lời chú, bản thân quý vị sẽ nhận được sự linh cảm mà tôi không thể biết được; khi tôi trì tụng lời chú, thì bản thân tôi sẽ có được sự linh cảm mà quý vị không thể biết được. Vì chúng ta không thể biết được công năng và sức mạnh của lời chú đối với mỗi người, cho nên gọi là Mật tông; chứ bản thân bài chú tuyệt đối không phải là Mật tông. Chính năng lực của chú mới là “mật”. Đó là ý nghĩa của Mật tông vậy.

Nếu lời chú là bí mật, thì quý vị không nên truyền cho người khác; một khi quý vị đem truyền cho người khác thì nó không còn là bí mật nữa. Cũng thế, Lục Tổ và Huệ Minh có một đoạn đối đáp như sau:

Huệ Minh hỏi: “Ngoài mật ngữ mật ý Ngài vừa giảng, còn mật ý nào nữa chăng?”

Lục Tổ đáp: "Ðiều tôi nói với ông đó chẳng phải là mật. Nếu ông phản chiếu, thì mật ấy ở ngay nơi ông."

Quý vị thấy không, đoạn đối đáp trên đã nói rất rõ ràng: Điều mà quý vị có thể nói ra thì chẳng còn là bí mật nữa. Những gì có thể trao truyền cho quý vị cũng giống như thế. Nếu là bí mật thì không nên truyền. Sự bí mật vốn ở ngay nơi quý vị, sát bên cạnh quý vị. Đây mới chính là cái được gọi là bí mật.

Tôi tin rằng ngay cả các Pháp sư của Mật tông cũng không biết cách giải thích về “mật tông” như thế nào; họ chỉ cho rằng bài chú là bí mật. Nhưng bài chú nào cũng đều có thể trao truyền cho mọi người, lời chú nào cũng đều có thể nói ra; không có bài chú nào là không thể nói ra cả! Nếu không được nói ra thì họ sẽ không có cách nào để truyền cho quý vị, có đúng vậy không nào? Chúng ta giảng chân lý nầy là vì nó có thể được truyền đạt cho quý vị, không phải là bí mật—đây không phải là Mật tông!

“Mật,” thì không có cách gì để truyền đạt. Điều bí mật chính là năng lực của bài chú. Không ai có thể nói cho quý vị biết chú nầy có năng lực gì, hoặc quý vị trì tụng thì sẽ như thế nào, như thế nào; mà “như người uống nước, nóng lạnh tự biết”—chỉ có quý vị tự mình biết mình mà thôi, người khác không thể nào biết được, do đó gọi là “mật”. Năng lực là bí mật, sự cảm ứng là bí mật, diệu dụng là bí mật, chứ không phải bài chú là bí mật! Bây giờ quý vị đều hiểu rõ rồi chứ?

Những người không hiểu rõ Phật Pháp ắt hẳn cho rằng tôi giảng không đúng. Cho dù là không đúng, tôi cũng vẫn muốn nói như vậy. Quý vị cho là tôi đúng ư? Quý vị không thể nào nói như vậy được! Bởi vì quý vị vốn hoàn toàn không hiểu gì cả, thì làm thế nào quý vị biết được là tôi hiểu!!! Tôi thì càng không hiểu gì cả; tôi còn hồ đồ hơn nữa! Có điều, trước kia sư phụ tôi đã chỉ dạy cho tôi rất rõ ràng, cho nên mới biến đổi kẻ hồ đồ này thành một người biết giảng Chú Lục Tự Đại Minh của Mật tông!

Mật tông được chia thành năm bộ—Đông, Tây , Nam , Bắc, và Trung ương. Phương Đông là bộ Kim Cang, chuyên hộ trì chánh pháp; bộ Bảo Sanh ở phương Nam; bộ Liên Hoa ở phương Tây; bộ Yết Ma ở phương Bắc và bộ Phật ở chính giữa. Nếu có thời gian quý vị hãy nghiên cứu Chú Lăng Nghiêm, trong đó có giảng về năm bộ này một cách tường tận.

Trên thế gian, nếu có một người trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì ma vương không dám xuất hiện; nếu không có người biết trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì ma vương trong ba ngàn đại thiên thế giới sẽ lũ lượt kéo đến thế gian. Tại sao ư? Vì không có người quản thúc chúng, năm bộ đều không hoạt động, cho nên ma vương mới dám xâm nhập thế gian. Bởi nếu có một người biết tụng Chú Lăng Nghiêm thì ma vương sẽ không dám xuất hiện, cho nên chúng tôi mong muốn có thêm nhiều người trì tụng Chú Lăng Nghiêm. Trong khoá tu học hè đầu tiên của chúng ta, trước hết, tôi đã khảo hạch xem ai có khả năng học thuộc Chú Lăng Nghiêm. Kết quả là có hai người đạt tiêu chuẩn, sau đó lại có thêm rất nhiều người có thể tụng chú được. Bây giờ tôi sẽ giảng về Chú Lục Tự Đại Minh.

Đầu tiên là chữ “Án”. Khi quý vị tụng chữ “Án” nầy, tất cả quỷ thần đều phải chắp tay lại. Vì sao phải chắp tay lại? Đó là giữ gìn pháp tắc, tuân theo khuôn phép. Quý vị tụng một chữ nầy, thì tất cả quỷ thần đều không dám gây rối, không dám không tuân theo mệnh lệnh. Chữ nầy có nghĩa là “tiếng dẫn” (dẫn thanh), là tiếng mở đầu dẫn tới những lời chú tiếp theo, cho nên khi đọc chú, đầu tiên đều đọc chữ nầy.

Ma Ni” chính là “mâu ni”. “Mâu ni” là tiếng Phạn, dịch là “trí tịch,” tức là dùng trí huệ để làm sáng tỏ tất cả các đạo lý, và do đó đạt đến trạng thái tịch diệt vô sanh. Lại có thể dịch là “ly cấu,” nghĩa là rời xa tất cả bụi bặm dơ bẩn, ví như viên ngọc “như ý,” rất toàn hảo, không có chút tỳ vết. Viên bảo châu “như ý” nầy có công năng sanh trưởng tất cả công đức, có thể đáp ứng mọi sở nguyện của con người.

Bát Di” vốn nên đọc là “Bát Đặc Di,” dịch là “quang minh viên giác”; cũng dịch là “liên hoa khai,” tức là diệu tâm của Bồ tát Quán Thế Âm, diệu tâm ấy viên mãn đầy đủ, vô ngại. Đó là chữ “bát di.”

Chữ “Hồng” có nghĩa là “xuất sanh” —tất cả mọi thứ đều có thể được sanh ra từ chữ “Hồng” nầy. Lại có nghĩa là “ủng hộ” —niệm chữ nầy thì liền cảm ứng chư hộ pháp thiện thần đến trợ giúp, che chở cho quý vị. Lại còn có nghĩa là “tiêu tai” —quý vị có tai nạn gì, tụng chữ nầy liền được tai qua nạn khỏi. Lại cũng có nghĩa là “thành tựu” —bất luận quý vị cầu nguyện điều gì, đều có thể được thành tựu như ý.

Một khi quý vị niệm Chú Lục Tự Đại Minh, thì sẽ có vô lượng chư Phật, vô lượng Bồ tát và vô số hộ pháp Kim Cang thường xuyên đến ủng hộ quý vị. Cho nên, Bồ tát Quán Thế Âm sau khi nói xong Chú Lục Tự Đại Minh nầy, liền có bảy ức đức Phật đến vây quanh, ủng hộ. Năng lực và diệu dụng của Chú Lục Tự Đại Minh không thể nghĩ bàn, sự cảm ứng đạo giao cũng không thể nghĩ bàn. Do vậy nên gọi là Mật tông. Nếu giảng chi tiết hơn thì ý nghĩa nhiều đến vô lượng vô biên, không thể nào nói cho hết được; thế nên tối nay tôi chỉ giảng sơ lược cho đại chúng nghe mà thôi.

Tôi có thể cho quý vị biết một chút về thứ thần lực bí mật không thể nói ra được. Tại sao tôi bảo là “thần lực bí mật không thể nói ra được”? Bởi vì những điều tôi nói thì chưa được một phần vạn của sự việc. Thế là thế nào? Nếu quý vị có thể thường xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có công năng biến đổi sự tối tăm u ám của sáu nẻo luân hồi trở nên sáng rạng. Điều cần thiết là quý vị phải chuyên tâm trì tụng mới có thể đạt được thứ Tam-muội này. Bấy giờ, ánh sáng không chỉ chiếu khắp trong sáu nẻo luân hồi, mà cả mười Pháp giới cũng biến thành “quang minh tạng”. Tôi hy vọng mọi người dù bận rộn đến đâu cũng nên nhín chút thì giờ để trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh nầy.

 


Khi nói xong Lục Tự Đại Minh ÁN MA NI BÁT DI HỒNG này, có Thất Thập Thất Cu Chi Phật đồng thời xuất hiện và đồng thanh nói “CHUẨN ĐỀ CHÚ”. Vậy, nên biết LỤC TỰ ĐẠI MINH cùng CHUẨN ĐỀ CHƠN NGÔN lần lượt nương vào nhau. (Rộng như Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương kinh nói.)

 

Thất Cu Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Đà Ra Ni Chơn ngôn: 

 

Nam Mô Tát Đa Nẫm, Tam Miệu Tam Bồ Đề Cu Chi Nẫm, Đát Điệt Tha. Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm.



Câu: “UM! BÚT RUM!  HÙM!” là chân ngôn “Nhứt Tự chuyển luân”, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu.

 

Chú Đại Luân Nhứt Tự: tức là Bộ Lâm, cũng gọi là Nhứt Tự Tâm Chú trong đời mạt pháp. Đối với thời mạt pháp, khi chánh pháp sắp diệt, chú này có đại thế lực. Hay giúp thế gian làm đại lợi ích, hay hộ trì Pháp Tạng của Như Lai, hay hàng phục tất cả tám bộ chúng, hay bẽ gãy tất cả các ác chú trong thế gian. Đây là đảnh của các Đức Phật, là tâm của Văn Thù Bồ Tát, hay ban thí vô úy cho tất cả chúng sanh và ban sự vui sướng cho họ. Phàm có tu trì sẽ tùy ý đắc quả, giống như ngọc Như Ý. Có công năng làm mãn nguyện tất cả. Nếu tụng chú này, nhìn thẳng bốn phương, các ác quỷ thần các xa năm trăm trạm đều chạy tản lạc. Các ác tinh diệu và các Thiên ma không dám lại gần. Nếu trì tụng các chơn ngộn khác sợ không thành tựu. Nên dùng chú này cộng chung với Chơn ngôn khác đồng thời trì tụng, nhất định sẽ kết quả. Nếu không thành tựu và hiệu nghiệm thì các vị thần hộ chú kia cái đầu sẽ bị phá vỡ ra làm bảy phần. Cho nên chú này thường trợ lực cho các Chơn ngôn mau có kết quả. Hoặc trì riêng chú này cũng được. (Rộng như Văn Thù Nghi kinh; Mạt Phát Trung Nhứt Tự Tâm chú kinh nói.)


BỒ TÁT CHUẨN ĐỀ

LÀ HÓA THÂN CỦA BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM TRONG MẬT TÔNG.


 

PHẬT MẪU CHUẨN-ÐỀ THẦN CHÚ

 


NAM MÔ TÁT ĐA NẨM, TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ, CU CHI NẨM, ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA-BÀ HA. 


 ÁN MA NI BÁT DI HỒNG

UM! BÚT RUM!  HÙM!

 

(108 biến)


ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA-BÀ HA. 


 


 

 ( Trì tụng đến KHI tương tục không gián đoạn, THÌ tấc cả vọng niệm không sanh khởi sẽ thấy LINH NGHIỆM hay QUÁN 9 chữ PHẠN hiện ra rõ ràng sẽ thấy LINH NGHIỆM )

Comments

Popular posts from this blog