LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN-NGÔN:
( Trì tụng đến KHI tương tục không gián đoạn, THÌ tấc cả vọng niệm không sanh khởi sẽ thấy LINH NGHIỆM hay QUÁN 6 chữ PHẠN hiện ra rõ ràng sẽ thấy LINH NGHIỆM )
LỜI GIỚI THIỆU
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Cùng quý Phật tử trong mười phương.
Bộ kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương mà Đại
đức Thích Viên Đức dịch từ chữ Hán sang chữ Việt là một ở trong bộ Đại
Tạng Kinh thuộc về Mật giáo, tập thứ ba.
Riêng tôi xét thấy Đại đức có công nghiên cứu và phiên
dịch các kinh thuộc Mật giáo, tôi rất lấy làm hoan hỷ.
Tôi cầu nguyện Đức Phật gia hộ cho việc
làm trên sớm thành tựu để bộ kinh được lưu hành đến
tận tay hàng Phật tử hữu duyên, hành trì đọc tụng tu
học, tăng thêm lòng tín nguyện.
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát.
Sài Gòn ngày 3-10-1973
Hoà Thượng THÍCH HÀNH TRỤ
Hiệu PHƯỚC BÌNH
CHỨNG MINH
LỜI TỰA
Nam Mô Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Thánh Quán Tự Tại Đại Bồ Tát.
Nhứt Tâm Đảnh Lễ Lục Tự Đại Minh Chơn ngôn:Úm Ma Ni Bát Nạp Minh Hồng.
Kính bạch chư Phật, Tôn Pháp, Bồ
Tát Hiền Thánh Tăng.
Hôm
nay con đốt nén hương lòng thành kính cầu xin Tam-Bảo chứng minh. Con phiên dịch bộ Vương Kinh
này thành chữ Việt với mục đích truyền bá Chánh pháp. Nếu có chỗ nào sai lầm khuyết điểm, chư
Phật, Bồ Tát, Hiền Thánh Tăng cho con
xin sám hối nguyện
tội được tiêu trừ.
Còn phần nào đúng đương nhiên công
đức vô lượng, con nguyện đem công
đức ấy hồi hướng cho
hết thảy pháp giới chúng sanh. Nơi nào có kinh
này lưu hành đến,
mong nhờ pháp oai lực, mưa nắng thuận
thời, lúa bắp được mùa hết thảy hữu
tình đều được đầy đủ no
ấm. Dứt tất cả các thiên
tai.
Con
cầu mong chư Phật, Bồ Tát, Hiền Thánh Tăng và Pháp
oai lực Vương Kinh này gia hộ cho
quý vị Tăng, Ni và các Phật tử đã
cúng tiền in kinh ấn tống nguyện như lời kinh dạy: Bảy đời dòng họ của những người
ấy đều được giải thoát luân hồi khổ não. Hiện đời sở cầu như ý, tự tại an vui, khi mãn báo thân đồng sanh nước Cực Lạc thế giới, thấy Phật nghe pháp mau chứng quả Bồ đề.
Nam Mô A Di Đà Phật Tác Đại Chứng Minh.
NAM
MÔ ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG KINH
HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT
(3 lần)
PHẬT NÓI KINH ĐẠI THỪA
TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG
-Xứ Trung Ấn Độ, nước Nhã Lan Đà
Ra, chùa Mật Lâm, Ngài Tam Tạng Tứ Tử Sa Môn THẦN THIÊN TỨC TAI, phụng chiếu
dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
-Sa Môn THÍCH VIÊN ĐỨC dịch ra Việt
văn.
Như thật tôi nghe, một thời đức
Thế Tôn, ở tại nước Xá Vệ, rừng cây Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc. Cùng với
chúng đại Tỳ Khưu gồm có một ngàn hai trăm năm mươi người và các
chúng đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Danh hiệu các Ngài ấy là: Kim
Cang Thủ đại Bồ Tát, Trí Kiến đại Bồ Tát, Kim Cang Quân đại
Bồ Tát, Bí Mật Tạng đại Bồ Tát, Hư Không Tạng đại Bồ Tát,
Nhựt Tạng đại Bồ Tát, Vô Động đại Bồ Tát, Bảo Thủ đại
Bồ Tát, Phổ Hiền đại Bồ Tát, Chứng Chơn Thường đại Bồ
Tát, Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát, Đại Cần Dũng đại Bồ Tát, Dược
Vương đại Bồ Tát, Quán Tự Tại đại Bồ Tát, Chấp Kim Cang đại
Bồ Tát, Hải Tuệ đại Bồ Tát, Trì Pháp đại Bồ Tát, hết thảy gồm
có tám mươi trăm ức Bồ Tát đều đến nhóm hội.
Lúc ấy có các chúng Thiên Tử
của ba mươi hai cõi Trời đều đến nhóm hội, trời Đại Tự Tại Thiên và
trời Na La Diên làm thượng thủ; tiếp đến trời Đế Thích Thiên
Vương, Tát Ha thế giới chủ Đại Phạm Thiên Vương, Nhật Thiên, Nguyệt
Thiên, Phong Thiên, Thủy Thiên, các chúng Trời như vậy thảy đều đến
nhóm hội.
Lại nữa có trăm ngàn Long Vương.
Gọi là: A Bát Lã Long Vương, Ê Lạ Bát Lị Long Vương, Để Long Nghĩ
Lệ Long Vương, Chủ Địa Long Vương, Bách Đầu Long Vương, Ngưu
Đầu Long Vương, Lộc Đầu Long Vương, Nan Đà Long Vương, Bạt
Nan Đà Long Vương, Ngư Tử Long Vương, Vô Nhiệt Não Long Vương,
Ta Nghiệt Lị Noa Long Vương, các vị Long Vương như vậy hết thảy
đều đến nhóm hội.
Lại có trăm ngàn Ngạn Đạt Phạ Vương.
Gọi là: Cổ Âm Ngạn Đạt Phạ Vương, Diệu Thinh Ngạn Đạt Phạ Vương,
Thiên Tý Ngạn Đạt Phạ Vương, Thiên Chủ Ngạn Đạt Phạ Vương, Thân Hoan
Hỷ Ngạn Đạt Phạ Vương, Chủng Chủng Nhạc Âm Ngạn Đạt Phạ
Vương, Trang Nghiêm Ngạn Đạt Phạ Vương, Hiện Đồng Tử Thân
Ngạn Đạt Phạ Vương, Pháp Lạc Ngạn Đạt Phạ Vương, như vậy hết thảy các
vị Ngạn Đạt Phạ Vương đều đến nhóm hội.
Lại trăm ngàn Khẩn Na La Vương.
Gọi là: Diệu Khẩu Khẩn Na La Vương, Bảo Quang Khẩn Na La Vương,
Hi Di Khẩn Na La Vương, Hoan Hỷ Khẩn Na La Vương, Luân Trang
Nghiêm Khẩn Na La Vương, Châu Bảo Khẩn Na La Vương, Đại
Phúc Khẩn Na La Vương, Kiên Cố Tinh Tấn Khẩn Na La Vương,
Diệu Dũng Khẩn Na La Vương, Bách Khẩu Khẩn Na La Vương, Đại
Thọ Khẩn Na La Vương, như vậy hết thảy các vị Khẩn Na La Vương đều
đến nhóm hội.
Lại có trăm ngàn Trời nữ. Các vị ấy
là: Tối Thượng Thiên nữ, Diệu Nghiêm Thiên nữ, Kim Đới Thiên
nữ, Trang Nghiêm Thiên nữ, Văn Trì Thiên nữ, Cam Lồ Nguyệt
Thiên nữ, Thanh Tịnh Thân Thiên nữ, Bảo Quang Thiên nữ, Hoa
Thân Thiên nữ, Thiên Diện Thiên nữ, Khẩu Diễn ngũ Nhạc Âm Thiên
nữ, Khoái Lạc Thiên nữ, Kim Man Thiên nữ, Thanh Liên Hoa
Thiên nữ, Tuyên Pháp Âm Thiên nữ, Diệu Lạc Thiên nữ,
Lạc Sanh Thiên nữ, Diệu Nghiêm Tướng Thiên nữ, Nghiêm Trì Thiên
nữ, Bố Thí Thiên nữ, Khiết Dĩ Thiên nữ, các Trời nữ như vậy thảy
đều đến nhóm hội.
Lại có trăm ngàn Long Vương nữ.
Gọi là: Diệu Nghiêm Trì Long nữ, Mẫu Thử Lân La Long nữ, Tam
Kế Long nữ, Hòa Dung Long nữ, Thắng Cát Tường Long nữ, Điễn
Nhãn Long nữ, Điễn Quang Long nữ, Diệu Sơn Long nữ, Bách Quyến
thuộc Long nữ, Đại Dược Long nữ, Nguyệt Quang Long nữ, Nhất
Thủ Long nữ, Bách Tý Long nữ, Thọ Trì Long nữ, Vô
Phiền Long nữ, Thiện Trang Nghiêm Long nữ, Bạch Vân Long
nữ, Thừa Xa Long nữ, Vị Lai Long nữ, Đa Quyến Thuộc Long
nữ, Hải Phúc Long nữ, Cái Diện Long nữ, Pháp Tòa Long nữ,
Diệu Thủ Long nữ, Hải Thâm Long nữ, Diệu Cao Cát Tường Long
nữ, các Long nữ như vậy cũng đều đến nhóm hội.
Lại có trăm ngàn Ngạn Đạt Phạ Nữ. Các
vị ấy là: Ái Diện Ngạn Đạt Phạ nữ, Ái Thí Ngạn Đạt Phạ Nữ, Vô Kiến Ngạn
Đạt Phạ Nữ, Diệu Cát Tường Ngạn Đạt Phạ nữ, Kim Cang Man
Ngạn Đạt Phạ Nữ, Diệu Man Ngạn Đạt Phạ Nữ, Thọ Lâm Ngạn Đạt Phạ nữ, Bách Hoa
Ngạn Đạt Phạ nữ, Hoa Phu Ngạn Đạt Phạ nữ, Bảo Man Ngạn Đạt Phạ Nữ, Cát
Tường Vương Ngạn Đạt Phạ nữ, Cổ Âm Ngạn Đạt Phạ nữ, Diệu Trang
Nghiêm Ngạn Đạt Phạ nữ, Phong Lễ Ngạn Đạt Phạ nữ, Pháp Ái Ngạn
Đạt Phạ nữ, Pháp Thí Ngạn Đạt Phạ nữ, Thanh Liên Hoa Ngạn
Đạt Phạ nữ, Bách Thủ Ngạn Đạt Phạ nữ, Liên Hoa Cát Tường Ngạn
Đạt Phạ nữ, Đại Liên Hoa Ngạn Đạt Phạ nữ, Thể Thanh Tịnh Ngạn
Đạt Phạ nữ, Tự Tại Hạnh Ngạn Đạt Phạ nữ, Thí Địa Ngạn Đạt Phạ nữ, Thí
Quả Ngạn Đạt Phạ nữ, Sư Tử Hộ Ngạn Phạ nữ, Cự Mẫu Na Hoa Ngạn Đạt Phạ
Nữ, Diệu Ý Ngạn Đạt Phạn nữ, Huệ Thí Ngạn Đạt Phạ nữ, Ái Nhẫn Nhục Ngạn
Đạt Phạ nữ, Đạt Phạ nữ, Nhạo Chơn Tịch Ngạn Đạt Phạ nữ, Bảo Nha Ngạn
Đạt Phạ nữ, Đế Thích Ngạn Đạt Phạ nữ, Thế Chủ Quyến Thuộc Ngạn
Đạt Phạ nữ, Lộc Vương Ngạn Đạt Phạ nữ, Biến Hóa Cát Tường Ngạn
Đạt Phạ nữ, Diễm Phong Ngạn Đạt Phạ nữ, Tham Giải Thoát Ngạn Đạt Phạ
nữ, Sân Giải Thoát Ngạn Đạt Phạ nữ, Si Giải Thoát Ngạn Đạt
Phạ nữ, Thiện Tri Thức Quyến Thuộc Ngạn Đạt Phạ nữ, Bảo Tòa Ngạn
Đạt Phạ Nữ, Vãng Lai Ngạn Đạt Phạ nữ, Hỏa Quang Ngạn Đạt
Phạ nữ, Nguyệt Quang Ngạn Đạt Phạ nữ, Biến Chiếu Nhãn Ngạn
Đạt Phạ nữ, Kim Diệu Ngạn Đạt Phạ nữ, Nhạo Thiện Tri Thức Ngạn Đạt
Phạ nữ, hết thảy các Ngạn Đạt Phạ nữ như vậy cũng đều đến nhóm hội.
Lại có trăm ngàn Khẩn Na La nữ.
Gọi là Nhất Ý Khẩn Na La nữ, Thâm Ý Khẩn Na La nữ, Phong
Hành Khẩn Na La nữ, Thủy Hành Khẩn Na La nữ, Thừa
Không Khẩn Na La nữ, Tấn Tật Khẩn Na La nữ, Tài Thí Khẩn
Na La nữ, Diệu Nha Khẩn Na La nữ, Vô Động Các Khẩn
Na La nữ, Nhiễm Giới Khẩn Na La nữ, Xí Thạnh Quang Khẩn
Na La nữ Diệu Cát Tường Khẩn Na La nữ, Bảo Khiếp Khẩn
Na La nữ, Quán Tài Khẩn Na La nữ, Đoan Nghiêm Khẩn Na
La nữ, Kim Cang Diện Khẩn Na La nữ, Kim Sắc Khẩn
Na La nữ Thù Diệu Trang Nghiêm, Khẩn Na La nữ, Quảng
Trạch Khẩn Na La nữ, Vi Nhiễu Thiện Tri Thức Khẩn Na
La nữ, Chủ Thế Khẩn Na La nữ, Hư Không Hộ Khẩn Na
La nữ, Trang Nghiêm Vương Khẩn Na La nữ, Châu Kế Khẩn
Na La nữ, Tổng Trì Châu Khẩn Na La nữ, Minh Nhơn Vi
Nhiễu Khẩn Na La nữ, Bách Danh Khẩn Na La nữ, Thí Thọ Khẩn
Na La nữ, Hộ Trì Phật Pháp Khẩn Na La nữ, Pháp
Giới Hộ Khẩn Na La nữ, Thượng Trang Nghiêm Khẩn Na La nữ, Sát
Na Thượng Khẩn Na La nữ, Cầu Pháp Thường Trì Khẩn
Na La nữ, Thời Thường Kiến Khẩn Na La nữ, Vô Úy Khẩn
Na La nữ, Thú Giải Thoát Khẩn Na La nữ, Thường Bí Mật Khẩn
Na La nữ, Sử Tổng Trì Khẩn Na La nữ, Nhận Quang Nhiễm Khẩn
Na La nữ, Địa Hành Khẩn Na La nữ, Hộ Thiên Chủ Khẩn Na
La nữ, Diệu Thiên Chủ Khẩn Na La nữ, Bảo Vương Khẩn
Na La nữ, Nhẫn Nhục Bộ Khẩn Na La nữ, Hành Thí Khẩn
Na La nữ, Đa Trụ Xứ Khẩn Na La nữ, Trì Chiến Khí Khẩn Na La nữ,
Diệu Nghiêm Khẩn Na La nữ, Diệu Ý Khẩn Na La nữ, hết thảy
các vị Khẩn Na La nữ như vậy cũng đến nhóm hội.
Lại có trăm ngàn Ô Ba Sách Ca, Ô
Ba Tư Ca cũng đến nhóm hội. Cho đến trăm ngàn chúng vô số tại
gia, xuất gia, các ngoại đạo dị kiến khác như Ni Càn… cũng
đều đến nhóm trong đại hội này.
Lúc ấy, đại A Tỳ địa ngục phát
ra ánh sáng lớn rực rỡ. Ánh sáng kia chiếu khắp vườn cây Kỳ Đà, vườn đó
liền biến thành thanh tịnh. Hiện bày cột trụ thiên ma ni quý
báu trang nghiêm vi diệu viên mãn. Hiện ra lầu các lớn
vàng báu xen nhau trang sức. Lại hiện ra các phòng : hiện phòng vàng
ròng thì cửa bằng bạc trắng, hiện phòng bạc trắng thì cửa bằng vàng
ròng. Hiện vàng bạc xen nhau dùng làm các phòng, vàng bạc xen
nhau lại làm các cửa. Hiện vàng bạc các báu xen nhau trang
nghiêm chính điện, vàng bạc xen nhau các báu vi diệu trang
nghiêm cột trụ. Hiện vàng ròng làm điện thì bạc trắng làm cột
trụ, hiện bạc trắng làm điện thì vàng ròng làm cột trụ. Hoặc bạc
trắng làm điện thì các diệu báu khác của cõi Trời nghiêm sức cột
trụ.
Trên rừng cây Kỳ Đà, hiện bày các
thứ quý báu mầu nhiệm của cõi trời mà làm trang
nghiêm. Lại hiện ra những cây Kiếp Thọ bằng vàng ròng, lá bằng
bạc trắng, trên cây kia có treo các thứ trang nghiêm, trăm thứ thượng
diệu y phục Kiều Xa Da vi diệu, còn có màng lưới báu trăm ngàn
chơn châu chuỗi ngọc anh lạc. Lại có trăm ngàn thượng diệu mão báu,
vòng tai, dây đeo châu ngọc, quý báu xen nhau mà nghiêm sức đẹp
đẽ. Lại có các hoa khác nhau màu sắc rực rỡ chen nhau đua nở và
có các thứ ngọa cụ thượng diệu, rương báu nhiệm mầu đựng các đồ trang
sức. Các thứ cây trang nghiêm Kiếp Thọ như vậy, số kia xuất hiện có
hơn trăm ngàn, vườn rừng Kỳ Đà và các cửa nẻo lầu các ấy, dùng toàn vàng Kim
Cang diệu bảo mà làm các thềm bực. Trên lầu kia có vô số thứ thú
thắng mầu nhiệm lụa the, nhung gấm, chơn châu, chuỗi ngọc anh
lạc, trang nghiêm như thế.
Lại có trăm ngàn ao báu thượng diệu,
trong ao kia chứa đầy đủ tám công đức, có các thứ tạp hoa thơm
diệu nở rộ đầy khắp như: Hoa Ưu Bát La, hoa Cự mẫu Na, hoa Bôn Noa Lị
Ca, hoa Mạn Na Ra, hoa Ma Ha Mạn Na Ra, hoa Ưu Đàm Bát
La, các hoa thảy đều đầy khắp trong ao. Còn có các thứ cây hoa thượng diệu như:
Cây hoa Chiêm Ba Ca, cây Ca Ra Ni, cây Ra Hoa, cây hoa Ba Tra Lạ,
cây hoa Diệu Giải Thoát, cây Hương Vũ, cây hoa Diệu Ý, có các thứ cây hoa
như vậy, lòng rất ưa thích. Vườn rừng cây Kỳ Đà hiện ra tướng
thật trang nghiêm hy hữu, thanh tịnh nhiệm mầu.
Lúc bấy giờ trong hội có vị Trừ
Cái Chướng đại Bồ Tát từ toà ngồi mà đứng dậy, trịch vai áo bên
hữu, gối hữu sát đất chấp tay cung kính, chiêm ngưỡng tôn
nhan của Đức Thế Tôn mà bạch Phật rằng: bạch Thế Tôn!
Con nay trong tâm có việc nghi muốn thưa hỏi đức Như Lai. Cúi mong Thế
Tôn cho phép con được thưa hỏi. Bạch Thế Tôn! Nay ở đây có ánh hào
quang sáng rực rỡ, ánh sáng ấy từ đâu đến hay từ nhơn duyên nào
mà chiếu hiện tướng đẹp đẽ lạ lung như vậy?
Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo
Ngài Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: Này thiện nam tử! Các ông
hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói. Hào quang sáng
rực kia là của Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát. Vào trong đại
A Tỳ địa ngục, vì muốn cứu độ tất cả hữu tình chịu đại
khổ não trong ấy. Cứu khổ nơi đó rồi, lại vào thành lớn để cứu
độ cái khổ của tất cả ngạ quỷ. Khi đó Ngài Trừ Cái Chướng đại
Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Cõi A Tỳ đại
địa ngục thành sắt bao quanh, đất lại là sắt, bốn phía thành kia không có
kẻ hở, lửa dữ hừng hẩy luôn luôn thiêu đốt. Trong cõi ác thú địa
ngục như vậy, có những nồi nước sôi lớn, nước sôi kia trào sùng sục; tất
cả trăm ngàn Câu chi na khố đa hữu tình đều bị ném vào
trong nồi nước ấy. Những nồi nước ấy như hầm nấu các thứ hạt đậu, lúc thì sôi
sục nhào lên hoặc lộn xuống, hầm nấu chín nát mà không bao giờ gián đoạn.
Trong A Tỳ địa ngục kia các loài hữu tình phải chịu
nhiều thống khổ như thế.
-Bạch Thế Tôn! Ngài Thánh Quán Tự
Tại đại Bồ Tát dùng phương tiện gì mà vào được trong
ấy? Đức Thế Tôn lại bảo Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát rằng:
Này thiện nam tử! Cũng như vua Chuyển luân Thánh vương vào
vườn Ma Ni Bảo cõi trời vậy. Như thế đó thiện nam tử!
Ngài Thánh Quán Tự Tại đại Bồ Tát khi vào đại A Tỳ địa
ngục, thân Ngài không hề có chướng ngại. Lúc đó đủ tất cả cái khổ
của A Tỳ địa ngục không thể ép thân của Bồ Tát, lửa dữ hừng hẩy
của địa ngục kia thảy đều dập tắt, biến thành nơi mát
mẻ. Khi ấy Diêm Ma địa ngục tốt trong ngục ngạc nhiên,
tâm sanh kinh sợ lạ lung chưa từng có, cớ chi nơi đây thoạt
nhiên biến thành tướng lạ phi thường như thế? Khi ấy
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát vào trong ngục dập tắt lửa
dữ, đập phá nồi nước sôi, lò lửa ấy biến thành ao báu mát mẻ, hoa
sen trong ao lớn như bánh xe. Bấy giờ Diêm Ma ngục tốt thấy
việc đó rồi đem các khí cụ trừng trị hình phạt như cung, kiếm, dùi,
gậy, chỉa ba nhọn, bánh xe sắt, cung tên… đem đến cho Diêm Ma Thiên
Tử, đến rồi bạch rằng: Đại Vương chắc Ngài hay biết, chỗ nghiệp
báo này vì sao thảy đều bị tận diệt? Lúc ấy Diêm Ma Thiên
Tử nói rằng: Thế nào, sở nghiệp báo của ngươi bị tận diệt sao?
Lại bạch Diêm Ma Thiên Tử rằng: Đại địa ngục A Tỳ kia
đã biến thành nơi mát mẻ. Khi xảy ra việc như vậy, có một
người sắc tướng uy nghiêm, đầu búi tóc Thiên diệu, đội mão báu trang
nghiêm, Ngài vào trong địa ngục pháp vỡ nồi nước sôi, hầm lửa trở
thành ao nước mát, trong ao có hoa sen lớn như bánh xe. Lúc bấy
giờ, Diêm Ma Thiên Tử suy nghĩ: Người cõi trời nào mà
oai lực như thế? Hay trời Đại Tự Tại, trời Na La Diên …
đến địa ngục biến hiện không thể nghĩ bàn. Hay là Thập Đầu La
Sát Đại Lực Oai Thần biến hóa ư! Bấy giờ Diêm Ma Thiên
Tử dùng thiên nhãn xem thấy khắp các cõi trời, rồi lại xem
nơi A Tỳ địa ngục, thấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, thấy như vậy, Diêm
Ma Thiên Tử vội nhanh chân bước đến chỗ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát.
Đến rồi gục đầu lễ sát chân Ngài, mà pháp lời thành kính dùng kệ khen
rằng:
Quy mạng Liên Hoa Vương, đại bi Quán Tự Tại.
Đại Tự Tại Cát Tường, hay thí nguyện hữu tình.
Đủ đức đại oai thần, hàng phục cực bạo ác.
Nơi tối làm đèn sáng, thấy ấy đều không sợ.
Thị hiện trăm ngàn tay, mắt kia cũng lại vậy.
Đầy đủ mười một mặt, trí như bốn biển lớn.
Ham ưa pháp vi diệu, vì cứu các hữu tình.
Trạnh các các thủy tộc, tối Thượng Trí như
núi.
Thí báu giúp quần sanh, tối thượng đại Cát
Tường.
Phước trí đủ trang nghiêm, vào nơi ngục A Tỳ.
Biến thành nơi mát mẻ, các trời đều cúng dường.
Đảnh lễ Thí vô úy, nói sáu Ba la Mật.
Thường thắp đèn đuốc pháp, mắt pháp dụ trời
sáng
Sắc tướng mầu đoan nghiêm, thân tướng như
núi vàng.
Bụng mầu sâu bể pháp, tương ưng ý chơn như.
Trong miệng hiện diệu đức, chứa nhóm Tam ma địa.
Vô số trăm ngàn muôn, có vô lượng khoái
lạc.
Đoan nghiêm Tiên tối thượng, sợ hãi trong ác
đạo.
Cùm trói được giải thoát, Vô úy thí tất
cả.
Các quyến thuộc doanh vây, mong cầu đều như ý.
Như được ma ni báu, phá hoại Ngã quỷ thành.
Khai mở đạo tịch tịnh, cứu độ bịnh thế
gian.
Như tàng cái che tràng, Nan Đà, Bạt Nan Đà.
Hai Long Vương thân cận, tay cầm Bất Không Tác.
Hiện vô số oai đức, hay phá kiếp ba cõi.
Kim Cang Thủ Dược Xoa, La Sát và Bộ Đa.
Vĩ Đa Noa Chỉ Nễ, và cùng Củng Bàn Noa.
A Bát Ta Ma Ra, thảy đều ôm lo sợ.
Mắt Ưu Bát La hoa, Minh Chủ Thí Vô Úy.
Tất cả thảy phiền não, các món đều giải thoát.
Vào nơi vi trần số, trăm ngàn Tam ma địa.
Khai thị các cảnh giới, tất cả trong ác đạo.
Điều khiến được giải thoát, thành tựu đạo Bồ
đề.
Khi ấy Diêm Ma Thiên Tử, ngợi
khen tán thán cúng dường đức Quán Tự Tại Bồ Tát, xong nhiễu
quanh ba vòng, rồi trở về chỗ cũ.
Lúc bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng
Bồ Tát lại bạch Đức Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự
Tại Bồ Tát cứu cái khổ đó rồi trở lại trong hội này ư?” Phật
dạy Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: “Này thiện nam tử!
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát từ đại địa ngục A Tỳ ra
rồi lại trở vào thành lớn Ngã quỷ, trong đó có vô số trăm
ngàn ngã quỷ miệng cháy ra lửa, đốt cháy mặt mày, hình thể khô gầy,
đầu tóc bờm xờm, lông mình dựng đứng, bụng lớn như núi, cổ nhỏ như kim. Lúc
ấy, Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát đến thành lớn ngã quỷ, thành kia lửa
đang cháy hừng hực, bỗng nhiên nghiệp hỏa thảy đều dập tắt trở
thành mát mẻ”. Bấy giờ có quỷ giữ cửa cầm gậy sắt, hình hài xấu
xí, đôi mắt đỏ ngầu phát khởi tâm lành: “Tôi nay khỏi phải coi giữ
nơi ác nghiệp này nữa”. Lúc ấy Ngài Quán Tự Tại đại
Bồ Tát khởi lòng đại bi, nơi mười ngón tay Ngài biến ra dòng sông trong,
nơi ngón chân cũng pháp ra dòng suối nước mát, mỗi lỗ chân lông đều biến ra
dòng sông lớn, cái loài ngã quỷ uống được nước ấy. Khi uống được nước
rồi thì yết hầu mở lớn thân tướng đầy đủ, lại được ăn no đủ các
thứ thượng vị, các ngã quỷ này được lợi ích an vui như
vậy, tâm liền suy xét. Cớ sao người Nam Thiệm Bộ Châu thường
được mát mẻ, yên ổn, khoái lạc? Ở trong châu ấy hoặc hay thường làm
điều lành, cung kính hiếu dưỡng cha mẹ, hoặc có điều lành, cung
kính hiếu dưỡng cha mẹ, hoặc có điều lành hay bố thí, vâng
thờ thiện tri thức, hoặc thông minh trí huệ thường
ham Đại Thừa, hoặc có điều lành hay kiến lập pháp tràng nói
pháp hòa nhã, hoặc có điều lành hay tu sửa các chốn Già lam hư
hoại, hoặc có điều lành hay tu sửa tháp Phật, hoặc có điều lành hay tu sửa
tháp Tướng Luân suy hoại, hoặc có điều lành hay cúng dường tôn
trọng Pháp Sư, hoặc có điều lành thấy được chỗ đức Như Lai kinh
hành, hoặc có điều lành hay thấy được chỗ Bích Chi Phật kinh hanh,
hoặc có điều lành hay thấy được chỗ A La Hán kinh hành. Khởi
lên suy nghĩ, Nam Thiệm Bộ Châu có các việc tu hành như
thế. Lúc ấy trong Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương tự
nhiên phát ra tiếng vi diệu mầu nhiệm, các ngã quỷ ấy
được nghe tiếng kia, chỗ chấp thân kiến tuy như núi cao, cùng các tùy
hoặc phiền não, trí Kim Cang xử phá hoại không sót,
liền được vãng sanh về Cực Lạc thế giới, đều làm Bồ Tát tên Tùy
Ý Khẩu. Lúc ấy Quán Tự Tại đại Bồ Tát cứu khổ đó
rồi, lại qua các thế giới phương khác, cứu độ các
loài hữu tình.
Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng lại bạch
Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ngài quán ự tại Bồ Tát, đến nơi chốn
ấy cứu độ hữu tình ư?”. Đấng Thế Tôn dạy rằng:
“Này thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát cứu độ không
ngừng vô số trăm ngàn Câu chi na khố đa hữu tình,
không lúc nào tạm nghỉ, lại đủ đại oai đức quá hơn Như Lai”. Trừ
Cái Chướng bạch rằng: “Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát làm
thế nào có sức đại oai thần như thế?”
Phật dạy: “Này thiện nam tử!
Về kiếp quá khứ có một vị Phật ra đời, hiệu là Tỳ Bát Thi Như
Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư,
Phật, Thế Tôn. Thời ấy tôi làm con của một nhà trưởng giả, gọi là
Diệu Hương Khẩu, nơi chỗ Phật ấy và đã nghe công đức oai thần của
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Bấy giờ Trừ Cái Chướng bạch rằng: “Bạch
đức Thế Tôn! Ngài đã nghe Quán Tự Tại đại Bồ Tát, công đức oai
thần như thế nào?” Đấng Thế Tôn dạy rằng: “Ngài Quán Tự Tại
Bồ Tát, nơi đôi mắt Ngài phát ra mặt trời, mặt trăng; nơi trán phát
ra trời Đại Tự Tại; nơi vai phát ra trời Phạm Vương; nơi tim phát ra
trời Na La Diên; răng phát ra trời Đại Biện Tài, miệng phát ra
trời Phong Thiên; rún phát ra trời Địa Thiên; bụng phát ra trời Thủy
thiên; thân của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát phát ra các thứ như
thế”. Lúc ấy Quán Tự Tại Bồ Tát bảo trời Đại Tự Tại thiên rằng:
“Ông ở đời vị lai nhằm đời mạt pháp, trong cõi hữu tình có
những chúng sanh chấp trước tà kiến, đều gọi ông từ vô thỉ đến
giờ đã làm đại chủ tể, sanh ra tất cả hữu tình, khi ấy chúng
sanh mất đạo Bồ đề, ngu si mê hoặc mà nói lên như thế
rằng:
Thân lớn như hư không, đất lớn
lấy làm tòa.
Cảnh giới và hữu tình, đều
từ thân ấy ra.
Như vậy thiện nam tử! Tôi ở
chỗ Tỳ Bát Thi Như Lai, sau khi nghe rồi, lại có Phật ra đời, hiệu là Thức
Khí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Trừ Cái Chướng! Tôi thời lấy làm Dõng Thí đại
Bồ Tát, ở chỗ Phật kia nghe công đức oai thần của Ngài Quán
Tự Tại đại Bồ Tát. Trừ Cái Chướng thưa rằng: “Đức Thế Tôn! Ngài
đã nghe Quán Tự Tại đại Bồ Tát, oai thần công đức như
thế nào?”. Khi ấy Phật dạy rằng: “Trong hội Thức Khí Như Lai, có
tất cả Trời, Rồng, Dược Xoa, A Tô La, Nghiệt Lỗ Noa, Ma Hộ La Nga,
người và chẳng phải người thảy đến nhóm hội.
Đức Thế Tôn thời ấy, ở trong
chúng khi muốn nói pháp, miệng phóng ra các sắc ánh sáng xen lẫn. Nghĩa là
sắc xanh ánh sáng xanh, sắc vàng ánh sáng vàng, sắc đỏ thì ánh sáng đỏ, sắc
trắng thì ánh sáng trắng, sắc hồng thì ánh sáng hồng, sắc pha đê ca ánh sáng
pha đê ca, sắc vàng kim ánh sáng vàng kim sắc. Hào quang sáng
kia chiếu khắp mười phương thế giới. Hào quang sáng
ấy trở lại nhiễu Phật ba vòng, rồi nhập vào trong miệng
Ngài.
Lúc ấy trong hội có Bảo Thủ
Bồ Tát Ma Ha Tát từ tòa ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối
hữu sát đất, chấp tay cung kính mà bạch đức Thế Tôn rằng:
“Nhơn duyên gì hiện ra điềm ấy?”.
Phật bảo: Này thiện nam tử!
Cõi Cực Lạc thế giới có Quán Tự Tại đại Bồ Tát, muốn đến
nơi đây nên hiện điềm lành đó. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát khi
đến nơi này, xuất hiện ra các thứ cây hoa Kiếp Thọ, cây hoa Cự Mẫu
Na, cây hoa Chiêm Ba Ca, lại hiện ra cùng các hoa khác xen
nhau. Hoa báu, ao báu, cây báu, mưa rưới các thứ hoa nhiệm mầu thơm tho. Lại
mưa xuống các thứ ngọc quý báu, chơn châu, lưu lu, ngọc ma ni bảo,
loa bối bích ngọc, san hô … Mưa xuống những áo trời đẹp đẽ như
mây tuôn.
Thời bấy giờ rừng cây Kỳ Đà,
vườn Cấp Cô Độc có bảy báu xuất hiện gọi là Kim
Luân báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, chủ kho tàng báu, chủ
binh báu, bảy báu như vậy đồng thời xuất hiện. Mặt đất
đều biến thành vàng ròng kim sắc. Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại
Bồ Tát, lúc rời khỏi Cực Lạc thế giới, đất chuyển động sáu lần. Bấy
giờ Bảo thủ đại Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Vì nhân
duyên gì xuất hiện điềm ấy?
Phật dạy: thiện nam tử!
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát muốn qua đến đây nên hiện điềm đó.
Khi ấy mưa xuống các thứ hoa thơm mầu
nhiệm và hoa sen vi diệu lòng rất ưa thích. Bấy
giờ Bồ Tát Quán Tự Tại tay cầm hoa sen ngàn cánh ánh
sáng vàng chói đến chỗ Phật mà đảnh lễ dưới chân Ngài rồi dâng
hoa sen lên cúng dường đức Thế Tôn. Hoa sen này của
Phật Vô Lượng Thọ (A Di Đà) khiến con đem đến dâng. Đức Thế Tôn nhận hoa
sen ấy rồi để qua bên trái.
Phật bảo Ngài Quán Tự Tại đại
Bồ Tát: Ông nay hiện ra thần thông công đức trang nghiêm ấy
là chi? Quán Tự Tại thưa: Con vì muốn cứu độ tất cả hữu
tình trong ác thú, nghĩa là tất cả ngã quỷ A Tỳ địa ngục như Hắc
Thằng địa ngục, Đẳng Hoạt địa ngục, Thiên Nhiên địa ngục, Đường
Ối địa ngục, Hoạch Than địa ngục, Hàn Băng địa ngục, trong
những đại địa ngục như vậy có các chúng sanh, con đều cứu vớt ra
khỏi ác thú, sẽ được chứng đắc Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng
chánh giác. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nói như vậy rồi, đảnh lễ nơi chân
Phật, lễ xong mà đi, thoạt tiên biến mất cũng như ánh lửa xẹt
vào hư không.
Lúc bấy giờ Bảo Thủ Bồ Tát bạch
đức Thế Tôn: con nay có điều nghi, muốn thưa hỏi đức Như Lai, mong Ngài vì
con nói ra: Quán Tự Tại Bồ Tát có phước đức gì mà nay
hiện thần lực như vậy? Phật nói như Căng già hà sa số Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, lấy thiên diệu y và ca sa y,
đồ ăn uống thuốc thang, ngọa cụ … cúng dường các Đức
Phật, như vậy phước đức thu được sánh bằng phước một sợi
lông của Quán Tự Tại, lượng đó không khác. Này thiện nam tử! Nơi
bốn châu lớn có một trăm mười hai tháng, ngày đêm thường mưa lớn, tôi có thể
đếm số mỗi hạt mưa. Thiện nam tử! Phước đức của Quán
Tự Tại tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như
biển lớn sâu rộng tám vạn bốn ngàn du thiện na, nước bốn biển lớn như
vậy tôi có thể đếm số mỗi từng giọt. Thiện nam tử! Phước đức của Quán
Tự Tại Bồ Tát đã có, tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử!
Lại nhu bốn đại bộ châu, loài hữu tình bốn châu như: sư
tử, voi, ngựa, beo, cọp, sói, nai, trâu, dê, tất cả nnhữntg thứ bốn chân
như vậy, tôi có thể đếm số lông trong mỗi thân đã có. Thiện nam tử! Phước
đức của Quán Tự Tại Bồ Tát tôi không thể nói hết số lượng.
Này thiện nam tử! Như có người vừa lấy vàng báu cõi trời, tạo
ra hình tượng Như Lai vô số nhiều như vi trần, một
ngày đều được thành tựu các thứ cúng dường, đã được công
đức phước báu kia, tôi đều đếm số được. Thiện nam tử! Phước
đức của Quán Tự Tại Bồ Tát, tôi không thể nói hết số lượng. Thiện
nam tử! Tất cả rừng cây tôi có thể đếm hết mỗi một số lá, còn phước
đức của Quán Tự Tại Bồ Tát tôi không thể nói hết số lượng. Thiện
nam tử! Lại như bốn đại châu có kẻ nam tử, người nữ nhơn, trẻ
đồng nam, đồng nữ, những người như thế đều thành Thánh quả Dự
lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A La Hán, quả Duyên Giác Bồ đề, phước
đức đã có như vậy, sánh bằng một sợi lông phước đức của Quán
Tự Tại Bồ Tát lượng kia không khác.
Lúc bấy giờ Ngài Bảo Thủ Bồ Tát bạch
đức Thế Tôn rằng: Con từ xưa đến nay chưa từng thấy cũng chưa
từng nghe chư Phật Như Lai có phước đức như thế! Thưa Thế
Tôn! Ngài Quán Tự Tại còn ở địa vị Bồ Tát, cớ sao mà
có phước đức như vậy? Phật dạy: Thiện nam tử! Chẳng riêng
cõi này chỉ một thân tôi cho đến phương khác vô số Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác đều vân tập đầy đủ một chỗ, cũng không thể nói
hết số lượng phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát. Thiện nam tử!
Ở thế giới này nếu có người nhớ niệm danh hiệu của Quán
Tự Tại đại Bồ Tát, người đó sau này xa lìa các khổ luân hồi
sanh, già, bịnh, chết, cũng như con Nga vương theo gió mà đi, mau
được vãng sanh về Cực Lạc thế giới, thấy Vô Lượng Thọ Như
Lai, nghe được diệu pháp, người như vậy vĩnh viễn không còn
chịu khổ luân hồi, không tham sân si, không già bịnh chết, không
khổ đói khát, không chịu khổ sanh thân bào thai, nương thừa pháp
oai lực, hóa sanh trong hoa sen, thường ở cõi ấy hầu cận Quán
Tự Tại đại Bồ Tát, cứu độ tất cả hữu tình, đều được
giải thoát kiên cố nguyện mãn.
Lúc ấy Bảo Thủ Bồ Tát bạch
đức Thế Tôn rằng: Ngài Quán Tự Tại đây ở vào trường hợp nào? Cứu
độ tất cả hữu tình đều được giải thoát kiên cố mãn
nguyện?
Đức Thế Tôn dạy rằng: Hữu
tình thì vô số thường chịu sanh tử luân hồi không dứt,
nên Quán Tự Tại Bồ Tát muốn cứu độ hữu tình được chứng
đạo Bồ đề. Như vậy nên Ngài tùy loại mà hiện thân thuyết
pháp. Nên hiện thân Phật để độ, Ngài liền hiện thân Phật mà
nói pháp. Đáng hiện thân Bồ Tát để độ, liền hiện thân Bồ
Tát mà nói pháp. Nên hiện thân Duyên Giác để độ, liền hiện
thân Duyên Giác mà nói pháp. Nên hiện thân Thanh Văn để
độ, liền hiện thân Thanh Văn nói pháp. Nên hiện thân trời Đại
Tự Tại để độ, liền hiện thân trời Đại Tự Tại mà nói
pháp. Nên hiện thân trời Na La Diên để độ, liền hiện
thân trời Na La Diên vì đó nói pháp. Nên hiện thân trời Phạm
Vương để độ, liền hiện thân Phạm vương mà nói pháp.
Nên hiện thân trời Đế thích để độ, liền hiện thân Đế
Thích vì đó mà nói pháp. Nên hiện Nhựt Thiên tử để độ,
liền hiện thân Nhựt Thiên tử mà nói pháp. Nên hiện
thân Nguyệt Thiên tử để độ, liền hiện thân Nguyệt thiên tử
để nói pháp. Nên hiện thân Hoả Thiên để độ, liền hiện thân Hoả
thiên mà nói pháp. Nên hiện thân Thủy Thiên để độ,
liền hiện thân Thủy thiên vì đó nói pháp. Nên hiện
thân Phong Thiên để độ, liền hiện thân Phong Thiên mà
nói pháp. Nên hiện thân Long thân để độ, liền hiện thân Long
thân vì đó nói pháp. Nên hiện thân Tần Na Dạ Ca để độ, liền hiện
thân Tần Na Dạ Ca mà nói pháp. Nên hiện thân Dược Xoa để
độ, liền hiện thân Dược Xoa nói pháp. Nên hiện thân Đa
Văn Thiên Tuớng để độ, liền hiện thân Đa Văn Thiên Tướng
nói pháp. Nên hiện thân Nhơn Vương để độ, liền hiện thân Nhơn
Vương vì đó nói pháp. Nên hiện thân Tể Quan để độ, liền hiện
thân Tể Quan nói pháp. Nên hiện thân phụ mẫu để độ,
liền hiện thân phụ mẫu vì đó nói pháp.
Này thiện nam tử! Ngài Quán
Tự Tại đại Bồ Tát, tùy theo các hữu tình đáng độ,
liền hiện thân ra như vậy mà nói pháp. Cứu độ các hữu
tình khiến được chứng địa vị Như Lai Niết Bàn.
Khi ấy Bảo Thủ Bồ Tát bạch
đức Thế Tôn rằng: Con chưa từng thấy cũng chưa từng nghe việc hy hữu không
thể nghĩ bàn như vậy. Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, có việc không
thể nghĩ bàn thật chưa từng có vậy?
Phật dạy: thiện nam tử!
Hang Kim Cang nơi Nam Thiệm Bộ Châu này có vô số trăm
ngàn muôn Câu chi na khố đa A Tô La an ở trong đó.
Thiện nam tử! Ngài Quán Tự
Tại đại Bồ Tát hiện thân làm A Tô La, vì A Tô La nói kinh
Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này. Chúng A Tô La được nghe
kinh ấy, đều phát lòng từ thiện mà lấy tay ôm chân Ngài Quán Tự
Tại đại Bồ Tát, nghe Chánh pháp này đều được an vui. Nếu có
người nghe được Vương Kinh này mà hay đọc tụng, thì người đó nếu
có tội nghiệp ngũ vô gián đều được tiêu trừ. Khi mạng gần
chết, có mười hai đức Như Lai đến nghinh đón mà bảo người đó
rằng: Thiện nam tử! Chớ nên lo sợ, ngươi đã được nghe kinh Đại
Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương. Chỉ rõ đường vãng sanh về
cõi Cực Lạc thế giới, có bảo cái vi diệu, mão trời đẹp đẽ dây
đeo châu ngọc, vòng quý đeo tai, thượng diệu y phục, hiện tướng như
thế. Chết rồi quyết được vãng sanh Cực Lạc thế giới.
Bảo Thủ! Ngài Quán Tự Tại đại
Bồ Tát, hiện thân A Tô La này tối thắng không thể sánh kịp,
khiến A Tô La kia sẽ được địa vị Niết Bàn.
Khi ấy Bảo Thủ Bồ Tát đầu
mặt sát đất, lễ nơi chân đức Thế Tôn, lễ rồi mà trở về.
2. Sau thời kỳ Phật Thức Khí,
có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Xá Phù Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Trừ Cái Chướng! Tôi ở thời ấy làm Nhẫn Nhục Tiên Nhơn nơi thâm sơn.
Chỗ ấy núi cao hiểm trở sỏi đá khô cằn, không người lai vãng ở
lâu trong đó. Bấy giờ, tôi ở chỗ đức Như Lai kia, nghe công đức oai
thần của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, Ngài Quán Tự Tại hiện
thân vào nơi kim vị, vì Phú Diện hữu tình mà nói diệu
pháp, chỉ bày Bát Chánh Đạo, đều khiến chứng được địa vị Niết
Bàn. Ra khỏi kim địa này lại vào ngân địa. Chỗ ấy hữu tình đều
là bốn chân. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát vì loài hữu tình kia
mà nói pháp: “Ngươi nên lắng nghe! Chánh pháp như vậy, cần phải phát
tâm suy xét chín chắn, ta nay chỉ bày tư lương Niết Bàn cho
ngươi.” Các hữu tình ấy đứng trước Ngài Quán Tự Tại bạch Bồ
Tát rằng: “Hữu tình không mắt, cứu làm sáng tỏ, khiến được thấy
đường. Không nơi nương nhờ, lại làm cha mẹ, khiến được nhờ nương.
Trong đường tăm tối làm đèn đuốc sáng, khai mở chánh đạo là
nguồn giải thoát. Nếu có hữu tình niệm danh hiệu Bồ Tát thì
được an vui. Chúng tôi thường chịu khổ nạn như vậy.” Khi ấy
tất cả những hữu tình nghe kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo
Vương, được nghe kinh rồi, liền được an vui, chứng bậc Bất thối.
Bấy giờ, Ngài Quán Tự Tại đại
Bồ Tát ra khỏi nơi ấy lại vào thiết địa mà nơi ấy là chỗ cấm của vua Đại
Lực A Tô La. Bồ Tát khi vào trong đó hiện thân như
Phật. Bây giờ vu đại Lực A Tô La, từ xa đến nghinh đón Ngài Quán
Tự Tại đại Bồ Tát vào trong vương cung A Tô La, có vô số quyến
thuộc, phần nhiều trong ấy đều là lưng gù xấu xí, quyến thuộc như
vậy đều đế, thân gần lễ bái nơi chân Ngài Quán Tự Tại đại
Bồ Tát mà nói bài kệ rằng:
Con đời nay đắc quả, chỗ nguyện thảy viên mãn.
Mong cầu được như ý, đấy là chánh kiến con.
Đã được thấy Bồ Tát, con và
các quyến thuộc đều được an vui, lại lấy bảo tòa báu dâng
hiến Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, chấp tay cung kính bạch rằng:
Bọn quyến thuộc chúng con từ xưa đến nay ham ưa việc tà
dâm, thường ôm lòng sân hận, ưa giết hại sanh mạng, tạo tội nghiệp âý,
tâm con rất lo buồn, sợ hãi già chết luân hồi, chịu nhiều
điều khổ não, không nơi nương, không chỗ tựa. Cúi mong Ngài thương
tình cứu độ, vì con chỉ bày đường đạo giải thoát.
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát dạy
rằng: Thiện nam tử! Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác thường làm hạnh khất thực, nếu ai bố thí đồ ăn sẽ
được phước đức nói không kể hết. Thiện nam tử! Chẳng những
thân tôi tại hang A Tô La này nói không thể hết, mà cho đến như mười
hai Căng già hà sa số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều
ở một chỗ, cũng không thể nói hết phước đức số lượng như thế. Thiện
nam tử! Vi trần đã có, tôi có thể đếm số lượng của nó
được. Thiện nam tử! Cúng thí cơm cho đức Như Lai được phước
đức đó, tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như
nước biển lớn, tôi có thể đếm mỗi một giọt nước kia được. Thiện nam tử!
Cúng thí đồ ăn cho đức Như Lai thì được phước đức tôi không
thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như bốn đại châu,
đã có người nam, kẻ nữ, con trai, con gái, thảy đều gieo ruộng, đầy khắp bốn
đại châu, không trồng giống khác, chỉ gieo hạt cải. Long rồng thuận
thời, thường được mưa xuống, hạt cải chắc tốt, nơi trong một châu lấy làm sân
chứa, giậm đạp xong rồi gom thành đống lớn. Thiện nam tử! Như vậy tôi
có thể đếm hết số mỗi một hạt cải. Thiện nam tử! Cúng thí đồ ăn
cho đức Như Lai được phước đức tôi không thể nói hết số
lượng. Thiện nam tử! Lại như núi Diệu Cao Sơn Vương vào
nước tám vạn bốn ngàn Du thiện na, ra nước tám vạn bốn ngàn Du thiện na. Thiện
nam tử! Như vậy núi Vương kia lấy làm giấy, lấy nước biển lớn chứa đầy
trong đó, đều làm nước mực. Đem bốn đại châu gồm có tất cả
kẻ nam, người nữ, con trai, con gái, thảy đều chép viết lượng núi Diệu Cao đã
chứa giấy ấy, chép hết không sót, như vậy tôi có thể đếm số mỗi một chữ
kia. Thiện nam tử! Cúng thí món ăn cho đức Như Lai được phước
đức mà tôi không thể nói số lượng. Thiện nam tử! Như vậy tất cả
người chép viết ấy, đều đắc Thập Địa Bồ Tát vị. Như vậy Bồ Tát đã có phước
đức, cùng với cúng thí cho đức Như Lai một bữa ăn, lượng phước
đức kia bằng nhau không khác. Thiện nam tử! Như Căng già sa hà
sa số biển lớn, trong đó có số cát, tôi có thể đếm mỗi một hột các
kia. Thiện nam tử! Cúng dường bữa ăn cho đức Như
Lai được phước đức mà tôi không thể nói hết số lượng. Lúc bấy
giờ vua Đại Lực A Tô La nghe nói việc đó buồn khóc thảm thiết,
lệ chảy tuôn tràn, ôm lòng buồn khổ nghẹn ngào than thở. Bạch Ngài Quán
Tự Tại Bồ Tát rằng: Con từ xa xưa làm việc bố thí, nhưng chỗ thí
ấy tối tăm phi pháp, do việc thí ấy cho nên con nay và các quyến
thuộc ngược lại phải chịu nghiệp báo ràng buộc ở
trong ác thú, nay đây làm thế nào đem ít phần thực, phụng dâng Như
Lai biến thành cam lồ. Con từ xưa đến nay ngu si vô
trí, tập hành ngoại đạo pháp Bà la môn. Thời ấy có một
người thân hình hèn xấu, đến nơi chỗ con cầu xin cần thiết.
Con đem bày đủ các thứ mão báu đẹp đẽ, vàng bạc vòng tai, y
phục thượng diệu, đủ báu trang nghiêm, đồ đựng ứ già … Lại có
trăm ngàn voi ngựa xe báu, chơn châu anh lạc, lưới báu trang
nghiêm, treo các chuỗi ngọc xen nhau trong sức, có các thức tàn báu,
lưới báu, màng trướng, trên treo các linh báu tiếng khua lung linh mầu
nhiệm. Lại có một ngàn con trâu màu vàng lông sắc tuyệt đẹp, móng
bạc trang nghiêm, sừng vàng phục sức. Lại dùng các báu xen nhau trang
điểm. Còn có một ngàn đồng nữ hình thể đẹp đẽ, dung mạo đoan
nghiệm, dường như thiên nữ, đầu đội mão trời, vàng báu đeo tai, thân mặc
diệu y, lưng đeo dây báu, vòng quý đeo tay, chuỗi ngọc anh lạc, khua
rung êm diệu, tràng hoa mầu nhiệm, các thứ như vậy thân đều trang
sức. Lại có các thứ tòa báu vô số trăm ngàn. Còn có các thứ vàng
bạc châu báu chứa để vô số. Có các trâu dê số trăm ngàn vạn, và
người chăn thả cũng nhiều như thế. Các thứ đồ ăn mỹ vị thơm tho như ở cõi
trời. Còn có vô số linh báu, vô số tòa sư tử bằng vàng
bạc, vô số phất trần vàng báu đẹp đẽ. Vô số đồ bảy
báu trang nghiêm tàn lọng. Khi bày đủ các thứ như vậy làm đại bố
thí, thì có trăm ngàn Tiểu vương đều đến nhóm hội. Có vô số trăm
ngàn muôn chúng Sát Đế Lợi cũng đến nhóm hội.
Khi con thấy rồi lòng sanh nghi hoặc.
Đương thời ấy con là tối tôn, đủ thế lực mạnh thống lãnh đại địa.
Con y phép Bà la môn, chuyên làm sám hối túc thế ác nghiệp,
muốn giết các Sát đế lợi và vợ con quyến thuộc của họ,
lấy cắt tim gan để cúng tế trời, mong trời diệt tôi. Khi ấy con đem trói hết
tay chân và nhốt hết vào trong hang cấm bằng đồng trăm ngàn người biên địa,
cũng đều bỏ vào trong hang cấm, lấy dây sắt trói vào cột sắt, trói cột tay chân
tất cả người ấy. Bây giờ con tạo dựng cửa hang, lấy cây thường làm
lớp cửa thứ nhứt, lấy cây khư nhĩ làm lớp cửa thứ hai, dùng sắt làm lớp cửa thứ
ba, lấy thục đồng làm lớp cửa thứ tư, lấy sanh đồng làm lớp cửa thứ năm, lấy
bạch ngân làm lớp cửa thứ sáu, lấy huỳnh kim làm lớp cửa thứ bảy, trên bảy
lớp cửa như vậy. Mỗi cái dùng năm trăm dây xiềng đóng chắc chắn, lại nơi
mỗi cửa đè lên một hòn núi. Khi ấy có trời Na La Diên thoạt nơi một
ngày hiện thân làm con ruồi bay đến dò xem. Lại một ngày nữa hiện
hình con ong. Lại một ngày nữa hiện hình con thân heo. Một ngày
nọ hiện tướng phi nhơn. Cứ thế ngày ngày thân tướng thay
đổi dò xem. Con bây giờ trong tâm suy nghĩ làm làm phép Bà la
môn, trời Na La Diên thấy con làm phép đó, đến nơi hang đồng mà phá
hoại dẹp bỏ bảy lớp cửa, đem mỗi hòn núi ném qua nơi khác và
lớn tiếng kêu những người bị trói rằng: Vô Thắng Thiên Tử! Các ngươi
thân chịu đại khổ não, thân mạng các ngươi còn sống hay đã
chết. Những người này nghe tiếng kêu hỏi, lên tiếng trả lời: “Mạng
tôi nay còn đây.” Trời Na La Diên Tôn sai Đại Lực Tinh Tấn cứu
khổ nạn tới, trời kia liền pháp hoại hang đồng cùng bảy lớp cửa, khi ấy
các tiểu vương ở tại hang đồng, liền được thoát nạn trói
buộc mà thấy trời Na La Diên.
Bấy giờ những người lòng toan suy
nghĩ, Đại Lực A Tô La Vương kia đã chết rồi ư? Hay lại ở đâu hay
chết phương nào? Những Sát đế lợi lại nói lên rằng: Tôi thà cùng họ
đối địch giết nhau chết mà còn có đất, chứ không chịu trói cột thế này đến phải
chết, tôi nay sẽ y pháp Sát đế lợi cùng họ chiến đấu giết
nhau, giả như có chết tại nơi đất ấy cũng được sanh Thiên. Giờ
các Tiểu vương nơi tại nhà mình bày biện xe giá, yên cương dây ngựa,
tay cầm dùi gậy muốn đại chiến đấu.
Bấy giờ, trời Na La Diên hiện Bà
la môn thân hình lùn xấu, mặc áo giáp da, quấn quanh nơi vai, trong
tay nắm cầm chĩa ba cây nhọn, làm vật tùy thân, qua đến cửa con. Khi ấy kẻ giữ
cửa bảo người kia rằng: Không nên vào cửa này, người ông hèn xấu, chớ có vào
trong. Bà la môn nói: Tôi nay từ xa mà qua đến đây. Kẻ giữ cửa
hỏi Bà la môn rằng: Ông từ đâu đến? Bà la môn đáp: Tôi
là Đại Tiên Nhơn làm Quốc vương xứ Nguyệt Thị, từ đó
mà đến đây. Bây giờ kẻ giữ cửa đến chỗ Đại Lực A Tô La Vương nói:
Người ấy nay đến đây để làm gì? Người giữ cửa nói: Tôi nay không biết họ đến
làm gì? Đại Lực A Tô La Vương bảo rằng: Ngươi đi kêu Bà la môn đến.
Người giữ cửa vâng lệnh gọi Bà la môn vào trong. Đaị Lực A
Tô La vương thấy rồi liền mời ngồi tòa báu. Kim Tinh là thầy đã được
A Tô La Vương hầu hạ phụng sự ở trong đó, bảo Đại Lực A Tô
La Vương rằng: Nay Bà la môn này là người đại ác, lại đến
đây quyết định phá hoại thầy ông. Nay sao biết ư? Bảo rằng:
Tôi nay biết đó. Sao biết thân ta đã hiện ấy là trời Na La Diên?
Đã nghe thấy rồi tâm liền suy nghĩ. Con làm huệ thí thì không phản phúc,
nay đến chướng nạn phá hoại nơi con. Đại Lực A Tô La
nói: Con miệng biện tài cần gì hỏi Bà la môn: Ông đến chỗ tôi là
có ý gì? Bà la môn đáp: Tôi đến xin vua hai dặm đất. A tô La
bảo Bà la môn rằng: khanh cần xin hai dặm đất, tôi sẽ cho khanh đất
kia ba dặm. Trước lấy bình vàng trao nước tịnh thủy, bảo rằng cần đất
khanh sẽ thọ lấy. Bà la môn thọ rồi mà chúc nguyện an vui trường
thọ.
Bấy giờ Bà la môn biến mất
thân hìn xấu xí. Lúc ấy Kim tinh bảo A Tô La Vương rằng:
Ông nay sẽ chịu ác nghiệp quả báo. Bây giờ trời Na La Diên thoạt
nhiên hiện thân, trên vai gánh hai vầng nhật nguyệt tay cầm gươm
bén, tay bưng luân báu cung tên cây gậy. Khi ấy Đại Lực A Tô La Vương
bỗng nhiên thấy rồi giựt mình run sợ, thân người té xỉu mê man dưới
đất, giây lâu mới tỉnh, nay phải sao đây! Ta thà tự vẫn thuốc độc mà chết
ư? Khi ấy trời Na La Diên đang đo số đất chỉ còn hai dặm chứ
không có nữa, chẳng đủ ba dặm trái lời hứa trước, tôi nay làm? Na
La Diên nói với vua rằng: Nay phải nên theo lời tôi chỉ bảo. Lúc
đó, Đại Lực A Tô La Vương thưa rằng: Tôi xin vâng lời chỉ
giáo. Trời Na La Diên nói: Ngươi thật ấy ư? Đại Lực A Tô La
Vương thưa: Tôi như thật vậy. Đây là lời thành thật tôi
không hối tiếc.
Thời ấy con y Bà la môn giáo, làm
chỗ tác pháp đều bị phá hoại những của cải đã
có, vàng bạc trân báu, đồng nữ trang nghiêm, y phục linh
báu, tàn lọng, phất mầu, bảo tòa sư tử, trâu vàng nghiêm báu, cùng
các quý khác trang nghiêm đầy đủ. Bấy giờ tiểu vương cùng
thảy các chúng đều thọ nhận lấy, tức thời ra khỏi nơi chỗ tác
pháp Đại Lực A Tô La vơng.
Vua Đại Lực A Tô La bạch
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát rằng: Con nay tâm hằng suy nghĩ,
vì khi xưa kia y pháp Bà la môn, làm đại hội bố thí,
việc bố thí của con thật mê muội sai lầm. Con nay và
các quyến thuộc, vì thế bị cầm giữ trong hang sắt này, chịu đại khổ não.
Ngài Quán Tự Tại! Con nay xin quy y, mong Ngài thương xót, cứu
thoát chúng con khỏi khổ nạn. Rồi làm lời khen rằng:
Quy mạng Đại Bi Liên Hoa Thủ,
Đại Liên Hoa Vương đại Cát Tường.
Các thứ trang nghiêm diệu sắc thân,
Đầu đội mão trời trang nghiêm các báu.
Đảnh đội Di Đà nhất thiết trí,
Cứu độ hữu tình hằng vô số.
Người thì bịnh khổ cầu an vui,
Bồ Tát hiện thân làm thầy thuốc.
Mắt sáng mặt trời nơi đại địa,
Tối thượng thanh tịnh mắt mầu nhiệm.
Chiếu soi hữu tình được giải thoát,
Được giải thoát rồi diệu tương ưng.
Cũng như như ý ma ni bảo,
Hay hộ chơn thật diệu Pháp Tạng.
Thường hằng nói sáu Ba la Mật,
Xương dương pháp ấy đủ đại trí.
Con nay khẩn thiết đến quy y,
Khen ngợi Đại Bi Quán Tự Tại.
Hữu tình nhớ niệm danh Bồ Tát,
Lìa khổ giải thoát được an vui.
Tạo gây ác nghiệp đọa Hắc Thằng,
Và đại A Tỳ địa ngục đạo.
Có các ngã quỷ nơi khổ thú,
Sợ sệt xưng danh đều giải thoát.
Như vậy ác đạo các hữu tình,
Thảy đều lìa khổ được an vui.
Nếu người hằng niệm Đại Sĩ danh,
Sẽ được vãng sanh cõi Cực Lạc.
Thấy Phật Như Lai Vô Lượng Thọ.
Được nghe diệu pháp chứng Vô Sanh.
Lúc ấy Ngài Quán Tự Tại đại
Bồ Tát thọ ký cho Đại Lực A Tô La Vương: Ông đời vị
lai sẽ được thành Phật, hiệu rằng Cát Tường Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư,
Phật, Thế Tôn. Ông ở thời ấy sẽ chứng sáu chữ Đại Minh của
môn Tổng Trì. Nay đây tất cả các A Tô La Vương, ở đời sau ông
đều cứu độ. Tất cả hữu tình ở cõi Phật như vậy, không
còn có tiếng tham sâm si. Bây giờ Đại Lực A Tô La Vương đã được thọ
ký rồi, liền lấy trân châu anh lạc giá trị trăm ngàn
cùng các thứ diệu báu mầu nhiệm trang nghiêm, trăm ngàn muôn số mão
trời vàng ngọc vòng tai, dâng lên nguyện mong thọ nhận.
Lúc bấy giờ Ngài Quán Tự Tại đại
Bồ Tát bảo Đại Lực A Tô La Vương rằng: Ta nay vì ông nói pháp,
ông hãy lắng nghe mà suy nghĩ, đời người là vô thường giả
tạm, mạng căn khó bền lâu, trong tâm các ông thường suy
nghĩ tham đắm đầy đủ đại phước đức, lòng thì thường mến nhân dân tôi
tớ, cho đến lúa nếp kho lẫm và kho tàng của báu. Tâm thường
luyến cha mẹ, vợ con, cho đến các quyến thuộc, những
thứ như vậy tuy hằng thương yêu nhưng chỉ như chiêm bao đã
thấy, khi mạng chết rồi không thể thay nhau cứu được. Mong được sống lâu ở
Nam Thiệm bộ này, do điên đảo đó nên sau khi mạng
chung, thấy sông Nại Hà máu huyết tràn đầy, lại thấy cây lớn lửa hừng
cháy mạnh. Thấy việc ấy rồi tâm sanh khiếp sợ, khi ấy Diêm Ma ngục
tốt lấy dây cột trói, vội vã dắt đi trên đường lớn đầy chông dao bén nhọn.
Mỗi cất bước đi là chẻ cắt đứt thương, có vô số chim la la, chim thứu
hung tợn và những chó dại gầm rú ăn thịt. Ở tại địa ngục chịu
cảnh cực khổ kia, trong đường đi lớn đầy dao nhọn bén, lại còn có
những cây gai nhọn dài đến mười sáu ngón tay, mỗi bước có năm trăm mũi dao nhọn
đâm vào bàn chân, đau đớn khóc than kêu gào thảm thiết mà
nói rằng: Những hữu tình chúng tôi đều ưa tạo tội nghiệp,
nay phải chịu đại khổ, tôi nay biết làm thế nào? Khi ấy Diêm Ma ngục
tốt bảo rằng: Ngươi từ xưa đến nay chưa từng đem cơm cúng
dường cho các bậc Sa Môn, cũng chưa từng nghe những tiếng pháp
âm thâm diệu hòa nhã, chưa từng đi nhiễu tháp tượng Phật.
Khi ấy các tội nhơn bảo Diêm Ma ngục tốt rằng: Tôi là tội
chướng đối với Phật, Pháp, Tăng, không cung kính tín hiểu mà
thường xa lìa. Ngục tốt bảo rằng: Chính ngươi đã tự tạo
các ác nghiệp, nay phải chịu khổ báo, ngục tốt đem các tội nhơn
ấy đến chỗ vua Diêm Ma, đến rồi đứng trước mặt. Khi ấy vua Diêm
Ma nói rằng: Ngươi đi đến ở nơi chỗ nghiệp báo. Khi ấy Diêm Ma ngục
tốt lãnh dắt tội nhân bỏ vào đại địa ngục Hắc
Thằng, đến rồi các tội nhơn ấy bị ném bỏ vào trong địa ngục, đã ném vào
rồi, mỗi một tội nhơn đều bị trăm vết thương, thân thể vị dùi cắt
mạng đều không chết. Lại bị hai trăm vết thương lớn, thân thể đều bị
dùi cắt mạng cũng không chết. Lại có ba trăm vết thương lớn, đồng thời dùi
cắt thân mạng kia cũng không chết, mạng vẫn còn sống. Khi ấy đem ném
vào hầm lửa lớn mạng cũng không chết. Lúc ấy lại lấy cục sắt nóng
nhét vào trong miệng tội nhơn bắt phải nhai nuốt, môi răng lưỡi nứu, cổ và yết
hầu đều bị cháy nát, cả tim gan ruột bụng cũng đều bị nướng, khắp thân cháy
hoại như rang khô. Quán Tự Tại dạy Đại Lực A Tô La Vương
rằng: Khi chịu những cái khổ đó không một ai thay nhau cứu được, ngươi nên biết
vậy. Ta nay vì ngươi nói pháp đó, các ngươi phải đem thân tự mình làm phước.
Bấy giờ Ngài Quán Tự Tại bảo Đại Lực A Tô La Vương rằng: Ta
nay muốn đến rừng cây Kỳ Đà, ngày nay ở tại đó đại chúng đang nhóm
hội.
Khi ấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát phóng vô
số sắc hào quang sáng: Hào quang sắc xanh, hào
quang sắc vàng, hào quang màu hồng, hào quang màu
trắng, hào quang màu pha lê, hào quang màu sắc sáng
màu vàng kim … Những hào quang đó chiếu đến trước đức Tỳ Xá Phù Như
Lai. Bấy giờ trời, rồng, dược xoa, la sát bà, Khẩn Na La, Ma
Hộ La nga và các người cùng thảy đều nhóm hội. Lại có vô số đại
Bồ Tát cũng đến nhóm hội. Trong chúng ấy có một vị Bồ Tát tên
là Hư Không Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y áo trịch vai
bên hữu, gối hữu sát đất, chấp tay cung kính hướng về đức
Thế Tôn mà bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Hào quang sáng
này là từ đâu đến? Phật dạy: thiện nam tử! Hào quang sáng
ấy là của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát ở trong cung Đại Lực A Tô
La Vương phóng ra đến đây. Bấy giờ Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch đức
Thế Tôn rằng: con nay làm cách nào để có thể thấy Ngài Quán Tự Tại kia? Phật
bảo: Thiện nam tử! Bồ Tát kia Ngài sẽ đến đây.
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát khi
ra khỏi vương cung Đại Lực A Tô La, vườn cây Kỳ Đà bỗng nhiên hiện
cây Thiên Diệu Hoa, cây Thiên Kiếp Ba, lại có vô số chư
Thiên đẹp đẽ sắc tướng trang nghiêm, trên cây treo trăm thứ chơn
châu chuỗi ngọc anh lạc, các thứ Kiều Thi Ca y rất đẹp và
các thứ y phục khác. Cây nhánh đều là sắc thẫm hồng, vàng bạc thì
làm lá. Lại có vô số cây hương thơm vi diệu và những cây
hoa nhiệm mầu, vô số ao báu trong ao báu ấy có trăm ngàn muôn
sắc diệu hoa xen nhau tỏa khắp mùi hương. Khi cảnh xuất hiện ra
những điều như vậy, Ngài Hư Không Tạng bồ tát bạch đức Thế Tôn rằng:
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nay ở đâu mà chưa thấy đến?
Phật dạy: Thiện nam tử!
Ngài Quán Tự Tại từ vương cung Đại Lực A Tô La ra rồi, lại
có một chỗ gọi là Hắc Ám, không người năng đến. Thiện nam tử!
Chỗ Hắc Ám kia ánh sáng mặt trời mặt trăng không thể
chiếu thấu, có như ý bảo gọi là tùy nguyện, ở trong đó thường khi
pháp ra ánh sáng chiếu soi, nơi ấy có vô số trăm ngàn Dược Xoa an
trú. Khi thấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát đi vào, lòng chúng quá vui
mừng nhảy nhót hớn hở, đến chiêm ngưỡng nghinh đón
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, đầu mặt lễ sát chân mà thưa hỏi rằng: Bồ Tát nay
vào đây không mệt nhọc ư? Lâu nay không thấy đến chỗ Hắc Ám này?
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nói: Ta vì cứu độ các hữu tình nên
đến đây. Bây giờ chúng Dược Xoa, La Sát đem tòa sư tử Thiên
Kim Bảo mà thỉnh Ngài an tọa. Bồ Tát liền vì Dược Xoa, La
Sát mà thuyết pháp: Các ngươi nên lắng nghe! Có kinh Đại Thừa tên Trang
Nghiêm Bảo Vương. Nếu có người được nghe một bài kệ bốn câu mà
hay thọ trì đọc tụng, giải nói nghĩa lý, tâm thường suy
nghĩ sẽ được phước đức không có hạn lượng. Thiện nam tử! Vi
trần đã có, ta có thể đếm số lượng được. Thiện nam tử! Nếu có
người đối với kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này có
thể thọ trì một bài kệ bốn câu thì phước đức kia
ta không thể đếm số lượng. Như nước biển lớn, ta có thể đếm từng giọt một. Đối
với kinh này mà thọ trì một bài kệ bốn câu, phước đức ấy
ta không thể tính số lượng được. Giả sử mười hai Căng
già ha sa số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, trải qua mười
kiếp đều ở một chỗ, thường lấy y phục, ngọa cụ, thuốc thang, đồ ăn
uống và các món cần dùng khác dâng cúng chư Phật, cũng không thể
nói hết số lượng phước đức kia được. Chẳng những chỉ mình ta ở
chỗ Hắc Ám mà nói không thể hết. Thiện nam tử! Lại nữa, người
trong bốn châu lớn mỗi ngươì tự mình xây dựng nhà cửa, tạo lập tịnh
xá, trong đó lấy toàn vàng báu cõi trời tạo dựng ngàn tháp nhiều tầng
(Suất Đổ Ba), trong một ngày hết thảy thành tựu các công đức cúng
dường, không bằng đối với kinh này mà thọ trì đọc tụng một bài
kệ bốn câu. Thiện nam tử! Như năm sông lớn dẫn nước về đại
hải, những dòng nước như thể không có cùng tận. Nếu có người
hay thọ trì kinh Đại Thừa này bốn câu kệ thì phước đức thu
được cũng bất tận vậy.
Bấy giờ Dược Xoa, La sát bạch
Ngài Quán Tự Tại rằng: Nếu có hữu tình mà hay biên
chép kinh Đại Thừa này thì phước đức kia thế nào? Thiện
nam tử! Phước đức ấy vô cùng vô tận. Nếu có người hay
biên chép kinh này, cùng với người biên chép tám vạn bốn ngàn pháp tạng phước
đức ấy bằng nhau. Người đó sẽ được địa vị Chuyển luân Thánh
vương, thống lãnh bốn đại châu oai đức tự tại, diện
mạo đoan nghiêm, ngàn thiên nữ vây quanh hầu hạ, tất cả kẻ
địch tự nhiên thần phục. Nếu có người chỉ thường niệm danh
hiệu kinh này, ngươì đó mau được giải thoát khổ báo luân
hồi, xa lìa già chết, ưu bi khổ não. Người đó sau khi sanh
nơi nào cũng nhớ được túc mạng đời trước, thân thường có mùi
thơm ngưu đầu chiên đàn, trong miệng thường tỏa ra mùi thơm hoa
sen xanh, thân tướng viên mãn, đầy đủ đại thế lực.
Khi thuyết pháp rồi,
các Dược xoa, La sát có kẻ chứng được Thánh quả Dự lưu.
Trong đó hoặc có kẻ đắc quả Nhất lai mà nói lên lời như thế
này: Cầu xin Bồ Tát ở lại chỗ này chớ đi nơi khác. Con nay
ở chỗ Hắc Ám này, lấy vàng báu tạo chỗ kinh hành. Khi ấy
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát dạy rằng: Ta vì cứu độ vô
số hữu tình khiến được đạo Bồ đề cho nên muốn đi nơi
khác. Lúc ấy các Dược xoa, La sát đều cúi đầu, lấy tay
chống má bồi hồi, lòng càng lưu luyến mà nghĩ như thế này: Nay
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát bỏ đây mà đi, sau này ai vì chúng
ta nói pháp vi diệu.
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát ở
đây ra đi, các Dược xoa, La sát đều đi theo mà đưa
tiễn. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát bảo rằng: Các ngươi đưa đi xa
rồi nên trở về chỗ. Các Dược xoa, La sát đầu mặt sát
đất đảnh lễ bên chân Ngài Quán Tự Tại rồi mới trở về chỗ
cũ.
Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại
Bồ Tát cũng như ánh lửa xẹt lên hư không, đến thẳng cung
trời, đến cung trời Ngài hiện thân là Bà la môn. Trong các thiên
chúng kia, có một vị Thiên tử gọi là Diệu Nghiêm, mà lại thường
chịu khổ báo nghèo cùng.
Bấy giờ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát hiện
thân Bà la môn đến chỗ Thiên tử đó, đến rồi bảo rằng: Tôi
bịnh hoạn đói khát và lại mệt nhọc. Lúc ấy Thiên tử khóc
than mà bảo Bà la môn rằng: Tôi nay nghèo thiếu không có vật chi để
dâng. Bà la môn nói tôi rất cần xin đem biếu tôi chút ít phần. Thiên
tử lúc ấy gắng gượng vào cung tìm tòi coi có vật
chi, thoạt tiên thấy các đồ đựng báu lớn, lại có các thứ quý báu khác
đựng đầy trong đó. Lại có đồ quý trong ấy đựng đầy thức ăn uống thượng
vị. Lại có thượng diệu y phục để trang nghiêm nơi thân đầy
khắp trong cung. Lúc đó Thiên tử lòng toan suy nghĩ: Bà la
môn ngoài cửa phải là người không thể nghĩ bàn, khiến tôi được
phước thù thắng phi thường, phải mời vị đại Bà la môn kia
vào trong cung điện. Vua đem những đồ quý báu và các thức ăn uống
cao lương mỹ vị cúng dường. Thọ lãnh đồ cúng dường rồi
vị Bà la môn chúc vua an vui trường thọ.
Bấy giờ Thiên tử bạch Bà
la môn rằng: Hiền giả từ phương nào đến đây? Bà la môn nói:
Tôi từ trong đại tịnh xá rừng cây Kỳ Đà mà đến đây. Thiên tử hỏi
rằng: Chỗ đó thế nào? Bà la môn bảo: Tịnh xá ở trong rừng
cây Kỳ Đà, nơi ấy thanh tịnh, xuất hiện ma ni báu trời và
cây Kiếp Thọ trang nghiêm. Lại hiện ra các thứ ma ni quý
báu khác lòng rất ưa thích. Còn hiện ra các thứ ao báu. Lại
có vô số các vị đại chúng giới đức oai nghiêm đầy
đủ đại trí tuệ, cùng xuất hiện trong đó. Ở đó có Đức
Phật hiệu Tỳ Xá Phù Như Lai. Nơi ấy là chỗ Thánh Thiên an
trụ, có việc biến hóa xuất hiện như thế. Bấy giờ Thiên tử bạch hiền
giả rằng: Thế nào Ngài đại Bà la môn nên nói thật Ngài
là trời hay là người? Hiền giả! Làm sao lại xuất hiện các việc
ấy? Bà la môn nói: Tôi chẳng phải trời chẳng phải ngươì. Tôi là Bồ
Tát vì muốn cứu độ tất cả hữu tình, thấy được đại Bồ
Tát đạo. Thiên tử nghe rồi liền lấy Thiên diệu mão báu, vòng tay
ngọc quý trang nghiêm đem dâng cúng dường, nói kệ khen rằng:
Con gặp được công đức, xa lìa các tội lỗi,
Như nay trồng ruộng tốt, hiện chắc được quả báo.
Khi Thiên tử nói kệ rồi,
vị Bà la môn kia việc hóa độ đã xong mà liền ra khỏi Thiên
cung. Liền khi ấy qua nước Sư Tử. Đến nơi đứng trước mặt các
nữ La sát, hiện thân tướng đẹp đẽ trang nghiêm lạ
kỳ. Các La sát nữ thấy vẻ đẹp ấy khởi lên dục tâm, đem
lòng hâm mộ, bước đến gần mà bảo rằng: Ông có thể làm chồng tôi,
tôi là gái trẻ đẹp, chưa từng sính đôi, mong được làm chồng tôi, nay đã đến đây
chớ đi nơi khác, như người vô chủ mà lại được chủ, nhà nhà tối gặp đèn
sáng, tôi này giàu có kho lẫm chứa đầy đồ ăn, thức uống, y
phục và có vườn đầy trái ngon ngọt, có ao tắm trong mát vừa lòng.
Vị Bà la môn bảo bọn nữ La sát rằng: Các ngươi nên lắng
nghe ta nói. La sát nữ thưa: Xin nghe lời chỉ dạy. Bà
la môn bảo: Ta nay vì các ngươi nói pháp Bát Thánh Đạo và nói
pháp Tứ Thánh Đế … Bây giờ bọn nữ La sát nghe pháp rồi,
đều được chứng Thánh quả, có người được quả Dự lưu, có người được
quả Nhất lai, không còn khổ tham sân si, không khởi ác tâm,
không ý giết hại sinh mạng, lòng mến chánh pháp , vui trọn nơi giới.
Bọn La sát nói: Chúng tôi từ nay trở đi không dám giết hại,
như người Nam Thiệm Bộ châu giữ gìn giới luật, sống đời trong
sạch, ăn uống thanh tịnh. Chúng tôi từ nay nguyện
sống cuộc đời như vậy. Thế là bọn nữ La sát không còn
tạo nghiệp ác nữa và giữ giới thanh tịnh.
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát ra
khỏi nước Sư Tử, lại qua đại thành Ba La Nại. Chỗ ấy xấu xa nhơ
nhớp, có vô số trăm ngàn vạn loại sâu giòi chen sống nơi ấy.
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát vì muốn cứu độ các hữu tình kia
nên hiện ra con ong bay đến miệng phát ra tiếng: “NẴNG MỒ MỘT ĐÀ DÔ (Nam Mô
Phật Đà Da), các loài trùng nghe tiếng ấy, cùng nhau lên tiếng như
thế. Do sức oai lực ấy, loài sâu trùng kia, thân kiến tuy chấp như
núi cao và đầy các tùy hoặc phiền não, trí Kim Cang xử đều phá
hoại tất cả, liền được vãng sanh về Cực Lạc thế giới, đều
làm Bồ Tát đồng danh Diệu Hương Khẩu.
Ở đó Ngài cứu độ các
loài hữu tình kia rồi, Ngài Quán Tự Tại liền ra khỏi
thành Ba La Nại, qua đến nước Ma Dà Đà. Khi ấy trong nước gặp
trời nắng hạn hơn hai mươi năm. Ngài thấy dân chúng và các hữu tình đói
khát khổ não, đều ăn thịt lẫn nhau. Lúc ấy Bồ Tát Quán
Tự Tại suy nghĩ: “Lấy phương pháp gì để cứu hữu tình này?”.
Bây giờ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát giáng xuống những trận mưa, nước mưa
thấm ướt khắp hết những nơi khô khan. Sau tiếp mưa rơi đầy các thứ đồ đựng,
nước trong mỗi đồ đựng biến thành những món ăn thức uống ngon
ngọt, các người kia được ăn uống no đủ.
Khi ấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát lại
giáng xuống những trận mưa hạt giống như lúa, mè, đậu, bắp cùng các
thứ khác cần dùng. Những người nơi đó thọ dụng tùy ý đầy
đủ. Bây giờ tất cả nhân dân trong nước Ma Dà Đà lấy
làm kinh ngạc chưa từng có. Dân chúng nhóm hội một chỗ, đã khi đang
nhóm họp các người đồng nói lên rằng: Oai lực của trời nay vì sao lại đến như
thế? Trong đám dân chúng ấy có một cụ già lưng khòm, tay chống gậy, người này
sống lâu vô số trăm ngàn tuổi, bảo các người rằng: Chẳng phải oai lực
trời đâu! Nay đã hiện ra thế này, chắc là oai thần biến
hiện của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Các người hỏi rằng: Ngài Quán Tự
Tại Bồ Tát kia làm thế nào mà xuất hiện ra điềm tốt ấy?
Ông già nói: “Ngài Thánh Quán Tự Tại dùng oai thần lực
biến tối tăm thành đèn sáng, biến trời nóng bức thành bóng
che mát, nơi nào thiếu khát hiện ra dòng sông, nơi nào sợ sệt liền
ban vô úy, bịnh khổ bức bách hiện thầy thuốc hay, hữu
tình thọ khổ biến làm cha mẹ, khiến chúng sanh trong A
Tỳ địa ngục thấy được đạo Niết Bàn, hay khiến tất cả hữu tình trong thế
gian đều được công đức, lợi ích an vui. Nếu có người
niệm danh hiệu Ngài Quán Tự Tại thì người đó tương
lai xa lìa tất cả khổ não luân hồi. Những ngươì nghe rồi
đều nói lành thay! Nếu có người ở trước tượng Ngài Quán Tự Tại mà kiến
lập đàn vuông (Mạn noa la), thường dùng hương hoa cúng
dường Bồ Tát Quán Tự Tại, người đó sẽ được Chuyển luân Thánh
vương, có bảy báu đầy đủ như: Kim luân báu, voi báu, ngựa
báu, châu báu, nữ báu, chủ kho tàng báu, chủ binh báu. Được bảy báu như
thế. Nếu có người đem dâng một cành hoa cúng dường Ngài Quán Tự
Tại Bồ Tát thì thân ngươì đó tiết ra mùi thơm, sanh vào nơi
nào thân tướng cũng đầy đủ.
Ông già ấy sau khi kể công đức thần
lực của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rồi thì cùng với các người
khác trở về chỗ ở.
Bấy giờ, Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát bay
lên hư không suy nghĩ: “Ta lâu không thấy đức Tỳ Xá Phù Như
Lai, nay trở về rừng cây Kỳ Đà nơi trong tịnh xá để thấy
đức Thế Tôn”. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát liền trở về tịnh xá,
thấy có vô số trăm ngàn vạn trời, rồng, Dược xoa, Ngạn đạt phạ,
A Tô la, Nghiệt lỗ noa, Khẩn Na La, Ma hộ la nga, người và chẳng phải
người. Lại có vô số trăm ngàn vạn Bồ Tát đều đang nhóm
hội. Lúc ấy Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng:
Thưa đức Thế Tôn! Vị đến đây là Bồ Tát nào? Phật dạy: Thiện nam tử!
Đó là Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Khi đó Ngài Hư Không Tạng Bồ
Tát ngồi lặng thinh. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nhiễu quanh Phật ba
vòng rồi trở về bên trái mà ngồi. Bấy giờ đức Thế Tôn an ủi mà
nói rằng: Ông không mệt nhọc ư? Thiện nam tử! Ông ở các nơi làm
việc giáo hoá thế nào? Ngài Quán Tự Tại liền kể hết những
việc giáo hoá đã qua, tôi đã cứu độ hữu tình như vậy.
Như vậy! Lúc ấy Hư Không Tạng nghe rồi tam ngạc nhiên chưa
từng có: Nay tôi thấy Quán Tự Tại còn làm Bồ Tát mà có
thể cứu độ những quốc độ hữu tình như thế, những hữu
tình trong những quốc độ ấy nay đã làm Bồ Tát được
thấy Như Lai như thế. Khi đó Hư Không Tạng Bồ Tát đứng
trước Ngài Quán Tự Tại mà thưa hỏi Quán Tự Tại rằng: Hóa
độ như vậy không mệt nhọc ư? Quán Tự Tại Bồ Tát nói: Tôi không
mệt nhọc, thưa hỏi rồi yên lặng mà ngồi.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn! Gọi thiện
nam tử rằng: “Các ông hãy lắng nghe, tôi nay vì ông nói sáu pháp Ba
la mật đa. Thiện nam tử! Nếu làm Bồ Tát, trướcc phải tu
hạnh bố thí Ba la mật đa, sau tu các hạnh Trì giới, Nhẫn
nhục, Tinh tấn, Thiền Định, Trí tuệ Ba la mật đa, tất cả
được viên mãn như vậy. Nói pháp xong đức Thế Tôn yên lặng
mà an trụ. Bấy giờ trong chúng hội ai nấy đều trở về chỗ
cũ, các chúng Bồ Tát cũng trở về nơi các cõi Phật Sát.
3. Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ
Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Những việc xưa kia của
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, con đã nghe Phật nói. Vậy Bồ Tát đó
có những Tam ma địa gì? Kính mong đức Thế Tôn vì con tuyên
nói.
Phật dạy: Này thiện nam tử!
Những môn Tam ma địa ấy là: Hữu tướng tam ma địa, Vô
tướng tam ma địa, Kim Cang sanh tam ma địa, Nhật quang minh tam
ma địa, Quảng bát tam ma địa, Trang nghiêm tam ma địa, Tinh
kỳ tam ma địa, Tát trang nghiêm tam ma địa, Trang nghiêm
vương tam ma địa, Chiếu thập phương tam ma địa, Diệu nhãn tam
ma địa, Trì pháp tam ma địa, Diệu tối thắng tam ma địa, Thí
ái tam ma địa, Kim Cang phiên tam ma địa, Quán sát nhứt
thiết thế giới tam ma địa, Lạc thiện thệ tam ma địa, Thần
thông nghiệp tam ma địa, Phật đảnh luân tam ma địa,
Diệu nhãn nguyệt tam ma địa, Liễu đa quyến thuộc tam ma địa, Thiên
nhãn tam ma địa, Minh chiếu kiếp tam ma địa, Biến hiện kiến tam
ma địa, Liên hoa thượng tam ma địa, Thượng vương tam ma địa, Thanh
tịnh a tỳ tam ma địa, Tín tướng tam ma địa, Thiên luân tam
ma địa, Sái cam lồ tam ma địa, Luân quang minh tam ma địa,
Hải thâm tam ma địa, Đa cung tam ma địa, Ca lăng tần già thinh tam
ma địa, Thanh liên hoa hương tam ma địa, Vận tải tam ma địa, Kim
Cang khải tam ma địa, Trừ phiền não tam ma địa, Sư tử bộ tam
ma địa, Vô thượng tam ma địa, Hàng phục tam ma địa, Diệu
nguyệt tam ma địa, Quang diệu tam ma địa, Bách quang minh tam
ma địa, Quang xí thạnh tam ma địa, Quang minh nghiệp tam ma
địa, Diệu tướng tam ma địa, Khuyến a tô tam ma địa, Cung
điện tam ma địa, Hiện viên tịch tam ma địa, Đại đăng minh tam
ma địa, Đăng minh vương tam ma địa, Cứu luân hồi tam
ma địa, Văn tự dụng tam ma địa, Thiên hiện tiền tam ma
địa, Tương ưng nghiệp tam ma địa, Kiến chơn như tam ma
địa, Điển quang tam ma địa, Long nghiêm tam ma địa, Sư tử tần
thân tam ma địa, Ta để diện tam ma địa, Vãng phục tam ma địa, Giác
ngộ biến tam ma địa, Niệm căn tăng trưởng tam ma địa, Vô
tướng giải thoát tam ma địa, Tối thắng tam ma địa, Khai
đạo tam ma địa.
Thiện nam tử! Ngài Quán Tự
Tại đại Bồ Tát chẳng những chỉ có tam ma địa ấy (tam muội, chánh
định) mà còn ở mỗi một lỗ chân lông đầy đủ trăm ngàn vạn tam ma địa. Thiện
nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát còn ở địa vị Bồ
Tát mà công đức như thế, cho đến chư Phật Như Lai phải
khen ngợi tán thán công đức chưa từng có vậy.
Thiện nam tử! Khi xưa tôi (Phật)
còn làm Bồ Tát, cùng với năm trăm người lái buôn, muốn vào nước Sư tử, đem
theo các xe cộ, lạc đà, trâu …để tìm kiếm của báu. Tôi dẫn
đầu đi đến nước đó, phải đi qua các làng xóm tụ lạc, các thành ấp,
khi đến bờ biển, tôi cùng các lái buôn đều lên một chiếc thuyền lớn để đi, lúc
bấy giờ đã vào thuyền. Tôi hỏi chủ thuyền: Ông xem chiều gió kia thổi từ đâu
đến, thổi đến nước nào? Hay là đến bảo châu, hay nước Xà Bà, nước La
Sát ư? Chủ thuyền ấy xem chiều giới rồi nói thế này: Gió này nên
hướng về nước Sư tử mà đi. Thuyền trương buồm nương gió đến
nước Sư tử, ở trong nước đó có 500 nữ La sát. Bỗng nhiên biến gió
thổi mạnh, biển nổi sóng cuồn cuộn thuyền bị đập vỡ.
Khi ấy các người lái buôn hụp lặn
trong nước, thân kia trôi giạt vào bờ và lên được trên bờ. Năm trăm
nữ La sát ấy thấy các người lái buôn, ai nấy đều lòng rung
động, kêu réo hét lên những tiếng dữ tợn rồi hiện thành những
cô gái trẻ đẹp, đến chỗ lái buôn. Họ đem y phục cho các lái buôn,
được mặc đồ rồi, tự mình vắt những đồ ướt khiến phơi mau khô. Rời khỏi bờ
biển, chúng tôi đến dưới cây Chiêm Ba Ca để nghỉ ngơi. Nghỉ
xong cùng nhau nói rằng: Chúng ta nay đây biết làm thế nào? Sanh nhai
nghề gì? Chẳng còn phương kế tính liệu làm sao? Nói rồi lặng thinh!
Bấy giờ bọn nữ La sát đến
trước những lái buôn nói như thế này: Tôi không có chồng, nên làm chồng mà ở
với tôi. Ở đây tôi có đồ ăn, thức uống, y phục, kho tàng, vườn cây,
ao tắm. Bấy giờ các nữ La sát, mỗi người đem một người lái buôn về chỗ
mình ở. Ở đó trong hàng nữ La sát có một người làm đại chủ tể tên
là Ra để Ca lãm. Nữ la sát ấy đem tôi về ở nhà nó. La sát lấy
các món ăn cao lương mỹ vị cung cấp cho tôi thật đầy đủ. Tôi được
sống sung sướng không khác gì ở nhân gian. Ăn ngủ ở đó trải
qua thời gian hai ba cho đến bảy tuần lễ. Thoạt nhiên
tôi thấy Ra để Ca lãm vui cười mừng rỡ.
Bấy giờ lòng tôi sanh nghi lấy
làm lạ là chưa bao giờ thấy nữ La sát ấy cười lên như thế.
Tôi liền hỏi: Cô nay cớ chi mà vui cười như vậy. Nữ La sát nói:
Nước Sư Tử này là chỗ nữ La sát ở, tôi sợ tổn hại tánh
mạng ông. Tôi lại hỏi: Làm sao mà cô biết? Nữ La sát nói: Chớ qua
đường hướng nam mà đi. Vì sao vậy? Vì ở đó có thành sắt trên dưới bao quanh
không có cửa ngõ, trong đó vô số người lái buôn phần nhiều đã
bị ăn thịt chỉ còn xương trắng, nay trong đó có kẻ còn người mất,
không tin lòng nhau, thì ông hãy theo đường này đến đó, tự nhiên sẽ
tin tôi. Khi ấy tôi chờ đến nửa đêm thì La sát ngủ mê, tôi là Bồ
Tát cầm nguyệt quang kiếm soi đờng qua phía nam, đi chung quanh
thành sắt mà xem, thấy không có cửa lớn, không có cửa nhỏ, bên thành sắt có một
cây Chiêm Ba Ca. Liền leo lên cây, tôi lớn tiếng kêu hỏi thì các
người lái buôn trong thành bảo tôi rằng: Hiền đại Thương Chủ!
Hãy trở lại đi, biết không? Chúng tôi bị bọn nữ La sát đem
nhốt trong thành sắt này, cứ mỗi ngày ăn thịt trăm người.”
Khi nghe các bạn nói những việc đã xảy
ra, tôi liền trụt xuống cây Chiêm Ba La, lui y đường cũ phía nam
mà cấp tốc trở về chỗ nữ La sát. Lúc ấy La sát bảo
tôi rằng: Hiền đại thương chủ! Thành sắt đã nói, trở về thấy
chăng? Ông nên nói thật. Tôi nói: Đã thấy. Tôi hỏi: Làm cách nào cho tôi
được ra khỏi nơi này? La sát bảo với tôi rằng: Nay có một cách hay có
thể khiến ông yên ổn, ra khỏi nước Sư tử này mà trở về Nam
Thiệm Bộ châu. Tôi thấy nói lời phải ấy tôi lại hỏi tiếp cô ta chỉ cho tôi
đường nào ra khỏi nước này. Khi ấy Ra để Ca lãm bảo với tôi rằng: Có Thánh Mã
Vương hay cứu độ tất cả hữu tình. Tôi liền tìm qua chỗ Thánh Mã
Vương, Ngài đang lăn mình nơi đất cát vàng, ăn bạch dược thảo, ăn rồi rung
mình đứng dậy lông thân quất ngược, làm như thế rồi mà nói lên rằng:
Người nào muốn qua bờ bên kia. Ba lần kêu hỏi: Nếu người nào muốn đi hãy
tự nói lên.
Tôi thưa với Thánh Mã Vương rằng: Tôi
nay muốn qua bên kia, nói xong tôi vội trở về nhà nữ La sát để
cùng ngủ nghỉ. La sát ngủ dậy lòng sanh hối hận những việc
đã qua mà hỏi tôi rằng: Thương chủ! Thân ông thế nào? Có lạnh lắm chăng? Hỏi
vậy tôi biết ý La sát không muốn cho tôi đi. Tôi liền lấy cớ bảo cô
ta rằng: Tôi mới vừa ra ngoài thành, đại tiểu tiện mà trở vào cho nên
bị lạnh. La sát bảo tôi nên đi ngủ sớm. Đến mặt trời mọc
tôi mới dậy. Tôi kêu các bạn lái buôn cùng đi rằng: Nay nên ra khỏi thành này
mà du ngoạn. Khi ấy các bạn lái buôn tôi đều ra khỏi thành, đến ở một chỗ
mà nghỉ, rồi cùng nhau bàn luận: Nay trong chúng ta vợ người nào
thật thương chồng? Thấy những gì và làm những việc gì?
Lúc ấy trong chúng tôi có
người nói rằng: Họ lấy những đồ ăn cao lương mỹ vị cung cấp cho
tôi.
Người khác lại bảo: Họ lấy các
thứ y phục đẹp đẽ cho tôi, hoặc nói lấy mão trời, vòng ngọc, đeo
tai, y phục cho tôi.
Hoặc: Tôi đã không được vừa lòng.
Kẻ nữa lại bảo: Họ lấy các món
long xạ hương, chiên đàn hương cho tôi. Khi các bạn lái buôn tôi
nói xong, tôi bảo: Các bạn khó giải thoát. Bởi vì sao? Vì thương
yêu nữ La sát vậy. Những người lái buôn nghe lòng nghĩ lo sợ mà
hỏi rằng: Đại thương chủ! Thật như vậy ư?
Tôi mới bảo rằng: Đây là nước Sư
Tử, chỗ nữ La sát ở chứ chẳng phải người vậy. Đây thật là lời
nữ La sát nói với tôi: Chỉ có Phật Pháp Tăng mới biết rõ
đây là nữ La sát. Bấy giờ các lái buôn nghe rồi tôi liền bảo họ rằng:
Nước Sư Tử này có Thánh Mã vương hay cứu tất cả hữu tình. Ngài
lăn mình nơi đất cát vàng, ăn đại bạch dược thảo, ăn rồi rùng mình đứng
dậy lông thân quật ngược mà ba lần kêu hỏi lên rằng: Ai muốn qua bờ bên kia?
Tôi thưa Ngài Mã Vương rằng: Tôi nay
muốn qua bờ bên kia. Bấy giờ các lái buôn lại nói với tôi rằng: Ngày nào
đi? Tôi bảo các người ấy sau ba ngày quyết định sẽ đi. Các người hãy
nên sắm đủ lương thực. Nói xong sau đó tôi và các bạn lái buôn cùng trở vào
thành. Ai nấy đều trở về nhà nữ La sát. La sát thấy
tôi về đến niềm nở thăm hỏi: Ông có mệt nhọc chăng? Tôi hỏi cô La
sát: Tôi chưa từng thấy ý người vui vẻ, vườn cây ao tắm là có thật
ư?
Lúc ấy La sát bảo với tôi
rằng: Đại thương chủ! Nước Sư tử này có các thứ hợp ý vừa
lòng: Vườn cây, ao tắm. Tôi bảo cô ta rằng: Hãy sắm đủ lương thực cho tôi, tôi
muốn sau ba ngày đi dạo xem vườn cây, ao tắm, xem những danh hoa đẹp đẽ kia,
tôi sẽ hái các thứ hoa ấy mà đem về nhà. Cô La sát bảo với tôi
rằng: Đại thương chủ! Tôi sẽ sắm đủ lương thực. Lúc ấy sợ
cô La sát biết phương kế chắc sẽ giết tôi, tôi nghĩ
như vậy mà làm thinh. Cô La sát lấy đồ ăn thức uống rất
ngon cho tôi ăn, ăn rồi tôi than thở. Cô La sát hỏi: Đại
thương chủ! Cớ chi mà than thở vậy?
Tôi bảo cô rằng: Tôi vốn là
người Nam Thiệm Bộ châu, nghĩ
nhớ đất cũ. Cô La sát bảo tôi rằng: Đại thương chủ! Chớ nhớ
xứ cũ làm gì. Nước Sư Tử này có các thứ ăn uống, y phục,
kho tàng các điều hợp ý vừa lòng: Vườn cây, ao tắm, thọ hưởng các
thứ khoái lạc. Cớ vì sao lại nhớ Nam Thiệm Bộ châu kia? Tôi bấy giờ
làm thinh mà yên ở đó. Qua ngày ấy rồi, đến ngày thứ hai, cô La sát sắm
đủ các thứ lương thực đồ ăn uống cho tôi. Các thương nhơn khác cũng
đều sắm đủ lương thực. Qua ngày thứ ba khi mặt trời vừa mới hừng mọc,
tôi đem tất cả những người lái buôn đều ra khỏi thành. Ra khỏi thành chúng
tôi cùng bàn: Chúng ta nay nên đi mau, không nên ngó lại
nước Sư tử này. Nói xong tôi cùng chúng bạn tức thời vội
vã qua đến chỗ Thánh Mã vương, đến nơi thấy Thánh Mã vương đang lăn mình ăn cỏ,
ăn rồi rùng mình đứng dậy lông thân quật ngược. Khi ấy
nước Sư tử đất đều chấn động, Mã vương ba lần nói rằng: Nay
người nào muốn qua bờ bên kia?
Các bạn lái buôn đồng nói lên
rằng: Chúng tôi nay đều muốn qua bờ bên đó. Lúc ấy Thánh Mã
vương vươn mình mạnh mẽ nói lời vội thúc rằng: Các người nên đi trước, chớ
ngó lại nước Sư tử! Thánh Mã vương nói như vậy rồi, bấy giờ tôi thừa cỡi Mã
vương đi trước, năm trăm lái buôn đều lên ngựa theo sau.
Khi ấy trong nước Sư tử các
nữ La sát thoạt nghe tin các lái buôn đi, miệng nói lên
những lời thống khổ, liền cấp tốc đuổi theo, theo sau kêu
gào, khóc thương than thở! Các bạn lái buôn tôi nghe tiếng động lòng,
quay đầu ngó lại, trong chốc lát đều rơi xuống nước. Các nữ La sát với
thân kia lên thảy đều ăn thịt. Khi ấy chỉ còn một mình tôi về
được Nam Thiệm Bộ Châu, Thánh Mã vương đưa tôi đến tận bờ biển. Đến bờ,
tôi bước xuống nhiễu quanh Thánh Mã vương ba vòng, rồi tìm đường mà
về chỗ cũ. Đã về đến nhà, cha mẹ thấy tôi ôm chân tôi mừng rỡ, thương
khóc nước mắt tuôn trào. Cha mẹ trước kia vì thương nhớ tôi
khóc than, nên đôi mắt phải mù lòa, nay tôi về lại sáng tỏ như
xưa. Cha mẹ cùng tôi ở chung một chỗ. Tôi bèn thuật lại đầy
đủ những việc đã trải qua cùng bao gian khổ. Cha mẹ nghe
rồi bảo với tôi rằng:
Con ngày nay được toàn tánh mạng yên
ổn mà về, ta hết sức sung sướng không còn lo buồn nữa, ta
không mong con phải cho ta nhiều của báu, nay chính ta tự biết tuổi
già sức yếu cần con gần gũi sớm chiều một bên, ta sẽ chết, con hãy làm chủ
mà tống tang ta. Khi xưa che mẹ đã nói lên những lời ngọt lành như thế mà an
ủi tôi. Trừ Cái Chướng! Tôi khi ấy làm thân thương chủ đã chịu
những việc khổ sở nguy nan như vậy!
Bấy giờ, Đức Phật dạy Trừ
Cái Chướng Bồ Tát: Thánh Mã vương ấy tức Quán Tự Tại đại Bồ Tát,
trong cơn nguy hiểm, lo sợ ấy đã cứu giúp tôi. Trừ Cái Chướng! Tôi nay không
thể nói hết số lượng công đức của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ
Tát. Tôi chỉ vì ông mà lược nói về Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát ,
trong lỗ chân lông nơi thân của Ngài đã có công đức. Trừ Cái Chướng! Thân
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, có lỗ lông vàng kim sắc, trong đó có vô
lượng trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa Ngạn Đạt Phạ. Những Ngạn
Đạt Phạ ấy không còn chịu khổ luân hồi mà hưởng thọ sự tối
thắng khoái lạc, thọ dụng các vật ở cõi trời không cùng
tận, không có ác tâm, không lòng ganh ghét, không tham sân si,
thường tu hành Bát Chánh Đạo, thường thọ pháp lạc.
Trừ Cái Chướng! Nơi trong lỗ chân lông
vàng ấy, lại phóng ra hào quang như ý bảo châu. Tùy theo chúng
Ngạn Đạt Phạ kia, nghĩ tưởng điều cần dùng gì thì tùy
ý biến hiện đầy đủ, ở trong lỗ chân lông vàng ấy, lại có lỗ chân lông đen,
ở trong đó có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa các vị
Tiên nhơn đủ thần thông, trong đó có kẻ đủ một thần thông, hoặc có kẻ
đủ hai, ba, bốn, năm thần thông; cũng có kẻ đủ sáu món thần thông. Ở
trong lỗ chân lông ấy, lại hiện đất bạc, vàng ròng làm núi, chót núi
cao làm bằng bạc trắng, ba mươi bảy thứ ưa thích, hoa sen báu trang
nghiêm núi ấy, ở trong núi kia có tám vạn bốn ngàn chúng Thần
Tiên. Những Tiên chúng đó xuất hiện ra cây Kiếp Thọ, thân câu thì màu
hồng thẫm, màu huỳnh kim, cành lá thì làm bằng bạc trắng, phóng ra ánh
sáng quý báu. Lại nơi mỗi lỗ chân lông hiện ra bốn ao báu; nước
ao có đầy đủ tám món công đức. Có những hoa hương thơm mầu nhiệm trổ
khắp trong ao, hai bên bờ ao có cây Thiên Diệu Hương, cây Chiên Đàn Hương,
lại có cây Kiếp Thọ trang nghiêm, trên treo mão trời, dây ngọc vòng tai,
có những chuỗi ngọc anh lạc đẹp đẽ trang sức cho cây. Trên
cây treo các linh báu, có các diệu y Kiều Thi Ca phục sức. Ở dưới mỗi
cây Kiếp Thọ có một trăm Ngạn Đạt Phạ vương thường tấu các khúc âm nhạc êm
dịu, lại có các bầy nai, chim, các giống linh cầm. Nghe âm nhạc rồi
thảy đều suy nghĩ: Các loài hữu tình phần nhiều chịu khổ
luân hồi. Vì sao người Nam Thiệm Bộ Châu phải chịu cảnh sanh,
già, bịnh, chết. Thương nhau mà phải xa lìa, chịu các khổ như thế. Các
loài cầm thú chim nai này nơi đây hết thảy đều nghĩ tưởng đến kinh
Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương như thế thì liền ở đó có các
món ăn uống cao lương mỹ vị của cõi trời, các hương thơm vi
diệu cõi trời, các y phục mầu nhiệm của cõi trời. Nghĩ
đến thì đầy đủ như ý.
Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng Bồ
Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Con nay nghe việc đó thật là
hy hữu! Phật dạy: Này thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Trừ Cái
Chướng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn: Như vậy, loài hữu tình tâm chỉ
nghĩ đến danh hiệu kinh này mà còn được lợi ích an vui như
thế, huống nữa nếu lại có người nghe được kinh này mà hay biên
chép truyền bá, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, cung
kính. Những người như vậy thường được an vui. Hoặc lại có người đối với kinh
này viết một chữ, thì người đó đời đương lai không còn chịu khổ
luân hồi, vĩnh viễn không còn trong những nhà hà tiện như:
hàng thịt cắt mổ … đã sanh ra thân thì hoàn toàn không chịu cảnh lưng
gù, miệng méo, môi sứt, ghẻ lác, cùng hết thảy những bịnh tướng không đáng
ưa, lại được thân tướng viên mãn, các căn đầy đủ, có thế lực lớn.
Huống thọ trì đọc tụng, chép viết đầy đủ, cúng dường, cung
kính thì người đó thu hoạch công đức nhiều biết là dường nào!
Bấy giờ đức Thế Tôn khen
rằng: Lành thay! Lành thay! Trừ Cái Chướng! Ông nay khéo
nói pháp như vậy, nay trong hội này, vô số trăm ngàn vạn
Thiên, Long, Dược Xoa, Ngạn Đạt Phạ, A Tô La, Nghiệt Lỗ Noa, Khẩn Na
La, Ma Hộ La Nga, người và chẳng phải người. Ô Ba Sách Ca, Ô Ba
Tư Ca, tất cả các chúng đó đều nghe pháp ông nói như vậy, nghe rồi
đem truyền bá rộng rãi pháp môn do ông đã hỏi. Lúc đó Trừ
Cái Chướng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Nay nói diệu
pháp đây, các chúng trời người khởi lòng tin kiên cố. Đức
Thế Tôn khen rằng: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử!
Ông có thể như thật hỏi lại Ngài Quán Tự Tại, lỗ chân lông trong
thân đã hiện ra công đức như vậy. Trừ Cái Chướng! Ngài lại có lỗ
chân lông trang nghiêm quý báu, trong đó có vô số trăm ngàn
vạn Câu chi na khố đa Ngạn Đạt Phạ nữ, diện mạo đoan nghiêm,
hình thể đẹp đẽ, các thứ trang nghiêm như vậy, sắc tướng dường
như Thiên nữ. Các chúng kia khổ tham, sân, si đều không thể xâm hại nơi
thân họ, mà cũng không chịu chút phần khổ não nào của cõi nhơn gian.
Nữ Ngạn Đạt Phạ ấy ở trong ba thời thường niệm danh hiệu Ngài Quán
Tự Tại đại Bồ Tát, thì những kẻ ấy lúc đó đều được tất cả vật cần
dùng đầy đủ.
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch
Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con muốn vào trong lỗ chân lông kia để xem những
việc đã có.
Phật dạy: Này thiện nam tử!
Lỗ chân ong kia không có bờ cõi biên giới, như cõi hư không, không
có chướng ngại. Thiện nam tử! Lỗ chân ong như vậy, không chướng,
không ngại, cũng không xúc não. Trong lỗ chân ong kia, Ngài Phổ Hiền đại
Bồ Tát đi vào trong đó trải qua mười hai năm mà không thấy
được bờ cõi biên giới. Thấy trong mỗi lỗ chân ong có các Phật bộ an
trụ. Vậy nên Ngài Phổ Hiền không thể thấy biên giới gần xa
kia được. Còn các Bồ Tát khác làm thế nào mà được thấy biên giới!?
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn!
Ngài Phổ Hiền đại Bồ Tát ở trong lỗ chân ong kia trải qua mười
hai năm không thể thấy cõi biên giới mà các lỗ chân ong lại có trăm
ngàn Đức Phật ở trong đó. Ngài Phổ Hiền đại Bồ Tát còn
không thể thấy được biên giới thì con nay làm thế nào mà vào trong ấy
ư !?
Phật dạy: Này thiện nam tử!
Ta cũng không thấy như thế là vi diệu tịch tịnh, là vô tướng,
cho nên hiện ra đại thân có đủ mười một mặt, có trăm ngàn mắt
đầy đủ rộng lớn, được tương ưng với địa vị vắng lặng Niết
Bàn. Đại trí vô đắc, không có luân hồi, không thấy cứu
độ, cũng không chủng tộc, không có trí huệ, cũng không có nói
các pháp như vậy: như hình bóng, như tiếng vang. Thiện nam tử!
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, không thấy không nghe, vì không có tự
tánh, cho đến Như Lai cũng đã không thấy thì ý ông thế
nào? Thiện nam tử! Phổ Hiền và hết thảy các vị Bồ Tát cũng
đều đầy đủ như thế không thể nghĩ bàn, nhưng không thể rõ biết chỗ biến
hóa của Quán Tự Tại.
Thiện nam tử! Ngài Quán Tự
Tại đại Bồ Tát biến hóa các việc cứu độ vô số trăm
ngàn vạn Câu chi na khố đa hữu tình, khiến được vãng sanh về
cõi Cực Lạc thế giới, thấy Phật Như Lai Vô Lượng Thọ, được nghe
pháp yếu, khiến mau thành đạo bồ đề. Bấy giờ Ngài Trừ Cái
Chướng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Không biết dùng phương tiện gì
khiến con được thấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát?
Phật dạy: Này thiện nam tử! Bồ
Tát kia chắc sẽ đến Tát Ha thế giới này mà diện kiến lễ
bái cúng dường ta.
Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch
Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Có thể biết Ngài Quán Tự Tại đại Bồ
Tát khi nào mới đến nơi đây? Phật dạy: Thiện nam tử! Khi
mà căn cơ hữu tình ở đây thuần thục thì Quán Tự
Tại đại Bồ Tát kia Ngài sẽ đến nơi đấy.
Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng đại
Bồ Tát lấy tay chống má suy nghĩ: Con nay có tội chướng gì? Thọ
mạng tuy dài mà chẳng được lợi ích, không được thấy Ngài Quán Tự
Tại để cung kính lễ bái, cũng như người mù đi giữa đường. Trừ
Cái Chướng Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Ngài Quán
Tự Tại đại Bồ Tát thật khi nào mới đến nơi đây? Đức Thế Tôn mỉm
cười dạy rằng: Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát ở đó không
có thời gian mà Ngài lại đến đúng thời gian.
Thiện nam tử! Thân của Bồ
Tát kia, có những lỗ chân lông tên Sái cam lồ, nơi trong những lỗ
chân lông ấy, có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa trời
người an trụ. Có kẻ chứng Sơ địa, Nhị địa cho đến có kẻ chứng
vị Thập địa đại Bồ Tát. Trừ Cái Chướng! Trong những lỗ lông Sái cam
lồ ấy, có sáu mươi núi vàng bạc quý báu. Mỗi núi kia có sáu vạn
Du thiện na, chót cao chín vạn chín ngàn. Dùng Thiên diệu vàng báu làm trang
nghiêm khắp ni, các Bồ Tát còn một đời bổ xứ làm
Phật cũng đều an ở trong ấy. Lại có vô số trăm ngàn vạn Câu
chi na khố đa chúng Ngạn Đạt Phạ ở trong những lỗ chân lông kia thường
hằng tấu các khúc âm nhạc êm dịu. Trừ Cái Chướng! Trong lỗ chân
lông Sái cam lồ, lại có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na
khố đa cung điện, dùng Thiên ma ni quý báu nhiệm mầu
mà trang nghiêm khắp nơi. Thấy rồi sanh lòng vui mừng. Lại có
các thứ chơn châu chuỗi ngọc anh lạc chen nhau trang sức. Ở
trong mỗi cung điện lại có Bồ Tát nói các pháp vi diệu, ra khỏi
cung điện rồi mỗi mỗi đều đi kinh hành. Ở chỗ kinh hành có bảy
mươi ao báu, nước trong ao có đầy đủ tám món công đức; có các thứ hoa gọi
là hoa Ốt bát la, hoa Bát nạp ma, hoa Cự mẫu na, hoa Bôn noa lợi ca, hoa Tháo
ngạn đà ca, hoa Mạn na la, hoa Ma ha mạn na la, hàm
tiếu, ở tròn đầy đủ trong đó. Nơi đất kinh hành kia lại có cây Kiếp
Thọ vừa lòng ưa thích, dùng vàng bạc cõi trời mà làm
cành lá, trên treo các mão trời vòng tai ngọc quý, trang nghiêm các
thứ trân châu báu anh lạc. Các Bồ Tát kia đi kinh
hành rồi, nơi ban đêm phân thời niệm tụng các pháp Đại Thừa, suy
nghĩ chỗ tịch diệt Niết Bàn, nghĩ sự khổ địa ngục, ngã
quỷ, bàng sanh, suy nghĩ như thế rồi, nhập vào Từ tâm tam
muội.
Trừ Cái Chướng! Nơi trong lỗ chân lông
kia xuất hiện các Bồ Tát như vậy. Lại có những lỗ chân lông
gọi là Kim Cang Diệu. Trong đó có vô số trăm ngàn vạn
chúng Khẩn Na La, nơi thân trang nghiêm các tràng hoa,
các chuỗi ngọc anh lạc, dùng các dầu thơm vi diệu thoa
thân, người thấy vui mừng, hằng thường niệm Phật Pháp Tăng.
Được lòng tin bất hoại mà an trụ nơi pháp nhẫn từ, suy
nghĩ đạo tịch diệt Niết Bàn để xa lìa luân hồi.
Như vậy! Như vậy! Đó, thiện nam tử! Chúng Khẩn Na La kia
tâm sanh ưa mến. Trong lỗ chân lông ấy có vô số núi, nơi trong núi
đó có hang Kim Cang báu, hang bằng vàng báu, hang bằng bạc báu,
hang pha lê ca báu, hang sắc hoa sen báu, hang sắc màu xanh
báu, có đầy đủ hang bảy báu như thế. Thiện nam tử! Nơi
trong lỗ chân lông kia còn có nhiều sự biến hiện ấy. Trong đó có vô số cây
Kiếp Thọ, vô số cây Chiên Đàn lớn, các cây ấy tỏa ra hương
thơm vi diệu, vô số ao tắm, trăm ngàn vạn bảo điện
cung trời, pha đê ca trang nghiêm đẹp đẽ, những cung trời bảo
điện trang nghiêm rất ưa thích xuất hiện ra như thế,
chúng Khẩn Na La đều an nghỉ trong cung điện ấy. Đã an nghỉ rồi lại
nói pháp vi diệu gọi là Pháp Bố thí Ba la mật đa và pháp
Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền Định, Trí huệ Ba
la mật đa. Nói sáu pháp Ba la mật đa rồi mỗi mỗi đều đi
kinh hành, các đường đi kinh hành nơi đó làm bằng vàng ròng, làm
bằng bạc trắng, chung quanh ở đó có cây Kiếp Thọ, thân bằng vàng ròng thì
lá bằng bạc trắng. Trên đó có các thứ Áo trời, mão báu, vòng tai ngọc quý, linh
báu khua rung, chuỗi ngọc anh lạc, những chỗ kinh hành kia trang
nghiêm như thế. Lại có lầu các, Khẩn Na La nơi ấy kinh hành để suy
tưởng các khổ trầm luân; sanh khổ, già khổ, bịnh khổ, lão
khổ, chết khổ, nghèo cùng khốn khổ, khổ thương nhau phải xa lìa, khổ
ghét nhau gặp gỡ, khổ cầu mong không được. Hoặc đọa địa ngục Kim
Châm, địa ngục Hắc Thằng, đại địa ngục Hắc Ê, đại địa ngục
Cực Nhiệt, địa ngục hầm lửa, hoặc đọa vào các Ngã quỷ thú,
những hữu tình như thế thọ đại khổ não. Các Khẩn Na La kia
khởi lên lòng suy nghĩ. Như vậy, thiện nam tử! Khẩn Na La kia
ưa suy nghĩ pháp thâm sâu, viên tịch chơn như cảnh
giới. Lại nơi ấy thường niệm danh hiệu Quán Tự Tại đại Bồ
Tát, bở do xưng niệm đó mà liền khi bấy giờ đều được các món cần
dùng đầy đủ như ý.
Thiện nam tử! Ngài Quán Tự
Tại đại Bồ Tát, cho đến danh hiệu cũng khó được gặp gỡ. Vì
sao vậy? Bởi Ngài ban cho tất cả hữu tình như bậc đại cha
mẹ, tất cả sợ sệt của hữu tình Ngài ban cho Thí vô úy. Làm
đại thiện hữu khai đạo cho tất cả hữu tình. Như vậy, thiện
nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát có sáu chữ Đại
Minh Đà Ra Ni rất khó gặp được. Nếu có người nào hay xưng niệm danh
hiệu sẽ được sanh trong lỗ chân lông kia thì không còn bị trầm luân,
khi ra khỏi một lỗ chân lông rồi lại nhập vào một lỗ chân lông khác, ở đó an
trụ cho đến khi chứng địa vị Viên tịch (Niết Bàn).
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch
đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Nay sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni
này làm thế nào mà được?
Phật dạy: Thiện nam tử! Sáu
chữ Đại Minh Đà Ra Ni này rất khó gặp được, cho đến Như Lai mà
cũng không biết chỗ sở đắc ấy thì nhơn vị Bồ Tát làm thế nào mà hay
biết được! Ngài Trừ Cái Chướng bạch đức Thế Tôn rằng: Đà Ra Ni
như vậy, nay Phật Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì sao
mà không biết ư?!
Phật dạy: Thiện nam tử! Sáu
chữ Đại Minh Đà Ra Ni đó là bổn tâm vi diệu của Ngài Quán
Tự Tại đại Bồ Tát. Nếu biết vi diệu bổn tâm ấy tức biết giải
thoát. Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Thưa
Thế Tôn! Trong các hữu tình có ai biết được sáu chữ Đại Minh Đà
Ra Ni đó chăng?
Phật dạy: Không có ai biết. Thiện
nam tử! Sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni này vô lượng tương
ưng Như Lai mà còn khó biết huống gì là Bồ Tát làm thế nào
mà biết được chổ bổn tâm vi diệu của Ngài Quán Tự Tại đại
Bồ Tát? Tôi đi trải qua các quốc độ khác cũng không biết
sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni này. Nếu có người thường thọ trì sáu
chữ Đại Minh Đà Ra Ni thì khi trì tụng có chín mươi chín Căng
già sa hà sa số chư Như Lai nhóm hội, có vô số Bồ
Tát nhiều như vi trần nhóm hội cùng các Thánh chúng Thiên
tử ở ba mươi hai cõi trời cũng đều nhóm hội. Lại có bốn Đại Thiên
Vương ở bốn phương làm hộ vệ, có Ta Nga La Long vương, Vô
Nhiệt Não Long vương, Đắc Xoa Ca Long vương, Phạ Tô Chỉ Long vương.
Như vậy có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố na Long
vương đến hộ vệ người thọ trì ấy. Lại ở khắp trong cõi
đất hết thảy các Dược Xoa Hư Không thần cũng đến hộ vệ. Thiện
nam tử! Trong lỗ chân lông Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát có
trăm ức Như Lai an trụ và khen ngợi người trì tụng ấy: Lành
thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi hãy được như ý ma
ni bảo, bảy đời dòng họ của người đều sẽ đều được giải
thoát.
Thiện nam tử! Người trì minh kia
(kẻ trì chú) ở trong bụng có các trùng, các trùng ấy sẽ được Bất thối
chuyển địa vị Bồ Tát. Nếu lại có người lấy sáu chữ Đại Minh Đà
Ra Ni này mà đeo giữ nơi thân, trên đảnh. Thiện nam tử! Nếu thấy được
người đeo giữ ấy, thời cũng như thấy thân Kim Cang, như thấy tháp Xá
Lợi, như thấy đức Như Lai, như thấy một trăm ức trí tuệ. Nếu có kẻ
trai lành gái tín nào hay y pháp niệm sáu chữ Đại Minh Đà
Ra Ni này, thì người đó sẽ được vô tận biện tài được trí tụ
tụ thanh tịnh, được đại từ bi, như vậy người đó ngày ngày được viên
mãn công đức sáu chữ Ba la mật đa. Người đó được trời Chuyển
luân Thánh vương quán đảnh, người ấy lời nói hơi trong miệng
phát ra, chạm đến thân người nào, người chạm được bất thoái chuyển Bồ
Tát, mau chóng chứng đắc Vô thượng bồ đề Chánh đẳng chánh giác.
Nếu người đeo giữ và thọ trì lấy tay chạm đến người khác, người được
rờ chạm ấy mau được Bồ Tát vị. Nếu kẻ nam người nữ, con trai con
gái, cho đến dị loại hữu tình khác, thâý được người đeo
và thọ trì ấy, tất cả đều mau được Bồ Tát vị. người như thế
đó, vĩnh viễn không còn chịu khổ sanh, già, bịnh, chết, khổ
thương xa lìa, mà được sự niệm tụng tương ưng không thể
nghĩ bàn. Nay như thật mà nói lên sáu chữ đại minh Đà Ra Ni vậy.
4. Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ
Tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con nay làm thế nào được sáu
chữ Đại Minh Đà Ra Ni? Nếu được thì vô lượng thiền định tương
ưng không thể nghĩ bàn. Tức đồng được Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng
chánh giác, vào môn giải thoát, thấy được địa vị Niết Bàn, tham
sân vĩnh diệt, pháp tạng viên mãn, phá hoại luân hồi của ngũ
thú và tịnh các địa ngục, đoạn trừ phiền não, cứu độ các
loài bàng sanh, pháp vị viên mãn của tất cả trí, dùng trí
ấy diễn nói vô tận. Thưa Thế Tôn! Con cần sáu chữ Đại Minh Đà Ra
Ni ấy. Con sẽ làm thế này, lấy của thất bảo đầy trong bốn đại châu
làm việc bố thí để chép viết. Bạch Thế Tôn! Nếu thiếu giấy bút, con
sẽ chích thân lấy máu làm mực, lột da làm giấy, chẻ xương làm bút. Thật như
vậy! Thưa Thế Tôn! Con không có hối tiếc, mà tôn trọng như bậc
đại cha mẹ.
Lúc bấy giờ Phật dạy Ngài Trừ Cái
Chướng Bồ Tát: Thiện nam tử! Ta nhớ thời quá khứ, vì sáu
chữ Đại Minh Đà Ra Ni này mà đã trải qua khắp vô số thế
giới như vi trần. Ta cúng dường vô số trăm ngàn
vạn Câu chi an khố đa của đức Như Lai, ta ở chỗ của đức Như
Lai ấy, mà cũng không được nghe. Thời kỳ đó có Đức Phật gọi
là Bảo Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Ta ở trước Đức Phật đó
mà rơi lệ buồn khóc. Khi bấy giờ đức Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác kia dạy Ta rằng: Thiện nam tử! Ông chớ nên buồn
khóc! Thiện nam tử! Ông hãy qua bên kia, sẽ thấy đức Liên Hoa Thượng Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tại nơi ấy Phật kia biết sáu chữ Đại
Minh Đà Ra Ni.
Thiện nam tử! Ta từ từ rời
chỗ đức Bảo Thượng Như Lai, qua đến cõi Phật sát
của Liên Hoa Như Lai, đến rồi đảnh lễ chân Phật mà chấp
tay đứng trước: Cúi mong đức Thế Tôn! Cho con sáu chữ Đại Minh Đà
Ra Ni, Chơn ngôn Vương kia là bổn mẫu của tất cả, nhớ niệm tên ấy
thì tội cấu tiêu trừ, mau chứng Bồ đề. Vì cớ ấy mà con rất mong
muốn, con đã chịu khổ nhọc trải qua vô số thế giới mà cũng
không được nên nay con mới trở lại đây.
Khi ấy Ngài Liên Hoa Thượng Như
Lai liền nói công đức sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni
rằng: Thiện nam tử! Vi trần đã có ta có thể đếm được số
lượng. Thiện nam tử! Lại như số cát trong biển lớn, ta có thể đếm
từng hạt một. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu chữ Đại Minh một
biến thì công đức ấy ta không thể đếm được. Thiện nam tử!
Lại như trời người tạo lập kho lẫm, chu vi một ngàn du thiện na, cao một trăm
thiện na chứa hạt mè đầy trong kho mà không kẽ hỡ dẫu bằng một mũi kim,
người giữ kho không già không chết, trải qua năm trăm kiếp,
ném bỏ ra ngoài từng hạt mè một, như vậy trong kho ném hết không sót,
ta có thể đếm số lượng kia. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu chữ Đại
Minh một biến thì được công đức, ta không thể đếm được. Thiện
nam tử! Lại như bốn đại châu gieo trồng hết thảy các loại lúa
nếp, Long vương mưa nắng thuận thời, lúa nếp đã trồng hết thảy
chín vàng, thu cắt đều xong. Lấy Nam Thiệm bộ châu mà làm sân chứa,
dùng xe vận tải chở hết các lúa về sân, đập để xong xuôi, dồn thành đống
lớn. Thiện nam tử! Ta có thể đếm số lúa ấy từng hạt một như
vậy. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu chữ Đại Minh này một
biến, công đức ấy ta không thể đếm được. Thiện nam tử!
Cõi Nam Thiệm Bộ Châu có những con sông lớn ngày đêm chảy mãi
gọi là sông Di Đa, sông Kinh Nga, sông Nại Ra, sông Tán Nại Ra, sông Bà Nghiệt,
sông Ái Ra Phạ Để, sông Tô Ma Na Đà, sông Hế Ma, sông Ca Lã Thú na
Lị. Mỗi một con sông lớn này có năm ngàn con sông nhỏ làm chi nhánh, ngày đêm
chảy vào biển lớn.
Thiện nam tử! Như vậy mỗi con
sông lớn kia ta có thể đếm số mỗi một giọt nước kia. Thiện nam tử!
Nếu niệm sáu chữ Đại Minh một biến được công đức ta không
thể đếm số lượng. Thiện nam tử! Lại như loài hữu tình bốn
chân trong bốn đại châu như sư tử, voi, ngựa, trâu đồng, trâu
nước, cọp, beo, nai, vượn, chồn, heo, dê, thỏ; những loài bốn chân như vậy
ta có thể đếm số lượng từng sợi lông một. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu
chữ Đại Minh này một biến thì được công đức ấy ta không thể
đếm số lượng được. Thiện nam tử! Lại như núi Kim Cang Câu Sơn
Vương kia, vuông mỗi bên tám vạn bốn ngàn du thiện na, nơi núi ấy có người
không già không chết, trải qua một kiếp nhiễu quanh núi chỉ được một
vòng. Núi Vương như vậy ta lấy y Kiều Thi Ca có thể trải hết không
sót. Nếu có người niệm sáu chữ Đại Minh này được công đức ta
không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như biển lớn sâu đến
tám vạn bốn ngàn du thiện na, lỗ miệng rộng lớn vô lượng, ta có thể lấy
một sợi lông nhét vừa hết không dư. Thiện nam tử! Nếu có người niệm
một biến sáu chữ Đại Minh này được công đức mà ta không thể
nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như rừng cây Thi Lợi Sa, ta
có thể đếm hết mỗi một lá. Thiện nam tử! Nếu niệm một biến sáu
chữ Đại Minh được công đức không thể nghĩ lường. Thiện
nam tử! Lại như bốn đại bộ châu những kẻ nam người nữ, con trai
con gái ở đầy khắp trong đó, những người này đều chứng Thất Địa Bồ Tát,
chúng Bồ Tát ấy đã có công đức cùng với công đức người
niệm sáu chữ Đại Minh này không khác. Thiện nam tử! Trừ một
năm mười hai tháng ra còn gặp năm nhuần mười hai tháng, lấy tháng dư
nhuần ấy làm số năm đủ mãn một kiếp trên cõi trời, ở đó ngày đêm thường
mưa lớn.
Thiện nam tử! Ta có thể đếm số
mỗi một hạt mưa kia được. Nếu có người niệm sáu chữ Đại Minh này một
biến, công đức số lượng rất nhiều. Nơi ý ông nghĩ sao? Thiện nam tử!
Lại như vô số một trăm ức đức Như Lai ở tại một chỗ trải
qua một kiếp của cõi trời, lấy các thức ăn uống, y
phục, ngọa cụ và thuốc thang đồ cần dùng, các thứ ấy đem cúng
dường cho các đức Như Lai mà cũng không thể đếm hết số
lượng công đức của sáu chữ Đại Minh. Chẳng những ta ngày nay
ở thế giới này mà ta từ trong định ra cũng không thể nghĩ bàn.
Thiện nam tử! Pháp gia hạnh vi
diệu tương ưng của tất cả quán trí này, người đời sau sẽ
được tâm pháp vi diệu ấy. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát,
khéo an trụ sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni như thế.
Thiện nam tử! Ta lấy phước gia
hạnh trải qua vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố
đa thế giới, đến chỗ đức Như Lai Vô Lượng Thọ chấp tay ở
trước, vì pháp ấy mà rơi lệ buồn khóc. Bấy giờ đức Vô Lượng Thọ
Như Lai thấy ta tại đó và vì đời sau mà bảo ta rằng: Thiện
nam tử! Ông cần sáu chữ Đại Minh Vương quán hạnh Du Già đấy
ư? Bấy giờ ta bạch: Con cần pháp ấy Thế Tôn! Con cần pháp Thiện Thệ
ấy, như người quá khát nước mà cần nước. Bạch Thế Tôn! Con vì sáu chữ Đại
Minh Đà Ra Ni ấy mà du hành vô số thế giới, vâng thờ
cúng dường vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa Như
Lai mà chưa từng được sáu chữ Đại Minh vương Đà Ra Ni, xin
mong đức Thế Tôn cứu cái ngu độn cho con; như không đầy
đủ khiến con được đầy đủ; mê mất đường về, dắt dẫn cho con thấy đường trở
về; nắng trời gay gắt, làm bóng che mát; nơi ngã tư đường trồng cây
Ta La. Tâm con khao khát mong cầu pháp ấy, cúi xin chỉ dạy, kiến
được thiện trụ nơi đạo cứu cánh, mặc được áp giáp đội mũ Kim
Cang. Bấy giờ đức Vô Lượng Thọ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng diệu
âm Ca Lăng tần già bảo Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát: Thiện
nam tử! Ông thấy đức Liên Hoa Thượng Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác, vì sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni này mà Ngài phải trải
qua vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa thế giới.
Thiện nam tử! Ông nên cho sáu
chữ Đại Minh. Đức Như Lai này vì vậy cho nên đến
đây. Quán Tự Tại Bồ Tát bạch đức Thế Tôn: Không thấy được Mạn Noa La
(Đàn Pháp) thì không thể đắc được pháp này. Làm thế nào biết là Liên
Hoa ấn? Làm thế nào biết là Trì Ma Ni ấn? Làm thế nào biết
được Nhất Thiết Vương ấn? Làm thế nào biết là Thể thanh tịnh Mạn
Noa La?
Nay tướng Mạn Noa La đây: Chu vi bốn
phía vuông, mỗi bề vuông năm thước, trung tâm Đàn Pháp (Mạn Noa
La) đặt tượng Phật Vô Lượng Thọ (Phật A Di Đà). Nên dùng
năm thứ bột quý phân rải trong đàn như: Nhơn nại ra nhĩ la bảo mạc, Bát
nạp ma ra nga bảo mạc, Ma ra kiết đa bảo mạc, Pha
để ca bảo mạc, Tô phạ ra noa lỗ bá bảo mạc. Nơi bên hữu đức Vô Lượng Thọ
Như Lai để trì Đại Ma Ni Bảo Bồ Tát; nơi bên tả Phật để sáu
chữ Đại Minh. Bốn tay thì thân sắc trắng đẹp như ánh trăng
thu, trang nghiêm các thứ báu. Tay trái cầm hoa sen, nơi
trên hoa sen để Ma Ni Bảo. Tay mặt cầm xâu chuỗi, hai tay
dưới kiết Nhứt Thiết Vương ấn. Nơi dưới chân sáu chữ Đại Minh để
trời người và các thứ trang nghiêm; tay bên hữu cầm Lư hương, tay bên
tả bưng bát đầy các thứ báu. Nơi bốn góc Man Noa La bày bốn vị Đại Thiên
Vương nắm cầm các thứ khí trượng. Bên ngoài bốn góc Mạn Noa La để
bốn hiền bình đầy các thứ Ma Ni báu. Nếu người thiện
nam và thiện nữ muốn vào Đàn Pháp (Mạn Noa La), không
thể để cho những quyến thuộc của mình vào trong Đàn Pháp, chỉ
nên viết tên của họ, kẻ trước vào Đàn Pháp ấy, hãy ném tên họ
của quyến thuộc mình vào nơi trong Mạn Noa La, các quyến thuộc ấy
đều được Bồ Tát vị. Người ở trong đó xa lìa các khổ
não, mau chứng đắc Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng chánh giác.
Pháp Mạn Noa La này vị A Xà Lê không
được vọng truyền. Nếu có phương tiện thiện xảo, thâm tín Đại
Thừa, gia công hành trì, chí cầu giải thoát, người như vậy
thì nên truyền không nên truyền ngoại đạo dị kiến (các đạo
khác). Bấy giờ Ngài Vô Lượng Thọ Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác bảo Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát rằng: Thiện nam tử!
Nếu có năm món sắc bảo mạc như vậy mới được kiến lập Mạn Na Loa.
Nếu thiện nam tử và thiện nữ nghèo cùng thiếu thốn không
thể sắm đủ các thứ quý báu ấy thì làm thế nào? Ngài Quán Tự Tại bạch
rằng: Thưa Thế Tôn! Nên phương tiện dùng các thứ đẹp đẽ mà
làm Đàn Pháp, lấy các thứ hương hoa để cúng dường. Nếu
người thiện nam ấy cũng không sắm sửa được gì vì: hoặc ở nhờ nơi quán
chợ miễu đình, hoặc có lúc giữa đường thì bây giờ vị A Xà Lê vận ý
tưởng thành Mạn Noa La kết A Xà Lê ấn tướng.
Khi bấy giờ đức Liên Hoa Thượng Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác bảo Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rằng: Thiện
nam tử! Hãy nói sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni này cho ta, ta
vì vô số trăm ngàn Câu chi na khố đa hữu tình, khiến
họ được xa lìa luân hồi khổ não, mau chứng Vô thượng Bồ đề Chánh
đẳng chánh giác.
Bấy giờ Ngài Quán Tự Tại đại
Bồ Tát nói sáu chữ Đại Minh cho Liên Hoa Thượng Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rằng:
“ÚM MA NI BÁT NẠP MINH HỒNG”
Khi đang nói sáu chữ Đại Minh Đà
Ra Ni này, bốn đại bộ châu và các cung trời thảy đều chấn động rung
lay như tàu lá chuối. Nước bốn biển lớn sóng nổi cuồn cuộn. Tất cả
quỷ Tỳ Na Dạ Ca và Dược Xoa, La Sát, Củng Bàn Noa, Ma Hạ Ca
… và các quyến thuộc của các ma làm chướng ngại ấy thảy
đều sợ hãi chạy trốn.
Lúc bấy giờ Ngài Liên Hoa Thượng Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác duỗi tay như mũi tượng vương trao
cho Quán Tự Tại đại Bồ Tát chuỗi chơn châu anh lạc giá
trị trăm ngàn để dùng cúng dường. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ
Tát đã thọ nhận rồi đem dâng lên đức Vô Lượng Thọ Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác. Phật kia Ngài thọ nhận rồi trở lại đem dâng lên đức Liên
Hoa Thượng Như Lai mà khi ấy Đức Phật Liên Hoa Thượng Như
Lai đã thọ được sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni, rồi Ngài đã trở
về trong Liên Hoa Thượng thế giới. Thiện nam tử!
Khi xưa ta qua ở chỗ Liên Hoa Thượng Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác kia đã được nghe Đà Ra Ni như thế.
Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng Bồ
Tát bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Khiến con làm thế nào được sáu chữ Đại
Minh ấy. Bạch Thế Tôn! Cam lồ đức vị tương ưng đầy đủ
như thế. Bạch Thế Tôn! Con nếu nghe được Đà Ra Ni ấy thì lòng không
biếng trễ, tâm niệm suy nghĩ mà thường thọ trì, khiến
các hữu tình nghe được sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni
được công đức rất lớn, mong Ngài vì đó mà nói lên.
Phật dạy: Thiện nam tử! Nếu
có người biên chép sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni này thời đồng với chép
tám vạn bốn ngàn Pháp Tạng. Nếu có người lấy vàng báu cõi trời,
tạo hình tượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, số như vi
trần, làm như vậy rồi nơi một ngày khánh lễ tán dương cúng dường,
chỗ thu hoạch quả báo không bằng đã được quả báo công đức biên
chép một chữ trong sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni ấy, đã khéo an trụ nơi
đạo giải thoát không thể nghĩ bàn. Nếu thiện nam tử và thiện
nữ, y pháp niệm sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni này thì người đó
sẽ đắc tam ma địa (được đại chánh định) gọi là: Trì ma ni bảo tam
ma địa, Quảng bát tam ma địa, Thanh tịnh địa ngục bàng sanh tam
ma địa, Kim Cang giáp trụ tam ma địa, Diệu túc bình
mãn tam ma địa, Nhập chư phương tiện tam ma địa, Nhập chư
pháp tam ma địa, Quán trang nghiêm tam ma địa, Pháp xa
thinh tam ma địa, Viễn ly tham sân si tam ma địa, Vô
biên tế tam ma địa, Lục ba la Mật môn tam ma địa, Trì
đại diệu cao tam ma địa, Cứu chư bố úy tam ma địa, Hiện
chư Phật sát tam ma địa, Quán sát chư Phật tam ma địa,
được một trăm lẻ tám món tam ma địa như vậy.
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch
Phật: Thưa Thế Tôn! Con nay đến nơi nào để đắc sáu chữ Đại Minh Đà Ra
Ni. Mong Ngài vì con chỉ dạy.
Phật dạy: Thiện nam tử! Ở
thành lớn Ba La Nại có một vị Pháp sư, thường phát tâm khóa
tụng thọ trì sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni. Bạch Thế Tôn! Con
nay muốn qua thành lớn Ba La Nại, thấy Pháp sư đó đặng lễ
bái cúng dường. Phật dạy: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Pháp
sư kia rất khó được gặp gỡ, người hay thọ trì sáu chữ Đại
Minh Đà Ra Ni. Thấy được Pháp sư đó cũng như thấy đức Như
Lai, như thấy công đức Thánh Địa, như thấy phước đức chứa
tụ, như thấy trân bảo, như thấy ban cho châu ma ni như ý,
như thấy Pháp Tạng, như thấy cứu đời.
Thiện nam tử! Ông nếu thấy
vị Pháp sư đó không được sanh lòng khinh mạn nghi ngờ. Thiện
nam tử! Sợ ông thoát thất địa vị Bồ Tát ngược lại sẽ
chịu trầm luân, vì vị Pháp sư kia giới hạnh khuyết
phạm, lại có vợ con, đại tiểu tiện dính dơ Ca sa, không
có oai nghi.
Khi bấy giờ Trừ Cái Chướng bạch
đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Như lời Phật ban dạy: Chúng con Trừ
Cái Chướng Bồ Tát và vô số chúng xuất gia Bồ Tát, Trưởng
giả, Đồng tử, Đồng nữ, ủng hộ tùy tùng muốn hưng
khởi đại lễ cúng dường mạnh mẽ, nắm cầm Thiên bào cái cõi
trời và các thứ mão báu, vòng ngọc đeo tai anh lạc trang nghiêm,
vòng quý đeo tay, những y phục Kiều Thi Ca, các thứ ngọa cụ bằng
nhung gấm, còn có các thứ hoa như: Hoa Ưu bát la, hoa Cự mẫu na,
hoa Bôn na lý ca, hoa Mạn na la, hoa Ma ha mạn na la, hoa
Mạn thù sa, hoa Ma ha mạn thù sa, hoa Ưu mạn bát la rất thơm
diệu.
Còn có các loại cây hoa khác
như: cây Chiêm ba ca, cây Ca la vĩ la, cây Ba tra la,
cây A để mục ngật đa ca, cây Phạ lật sử ca thiết, cây Quân đa, cây Tô ma na,
cây Ma lý ca.
Còn có các loại chim: chim
Uyên ương, chim Bạch hạc, chim Xá lợi, từng bầy theo; còn có các thứ
lá đủ màu năm sắc trăm loại: vàng, xanh, đỏ, trắng, hồng, sắc pha lê ca;
có các cây quý báu thơm ngọt.
Đem hết thảy các thứ cúng dường như
thế, qua đến thành lớn Ba La Nại, đến chỗ Pháp sư ở, đến rồi cúi
đầu đảnh lễ sát chân Ngài. Tuy thấy pháp sư giới hạnh khuyết
phạm không có oai nghi, vẫn đem đầy đủ lọng tàn, ngoạ cụ, y phục và
các phẩm vật hương hoa trang nghiêm mà làm đại lễ cúng
dường pháp sư rồi chấp tay ở trước vị pháp sư đó
mà thưa rằng: Đây là Đại Pháp Tạng, là Cam lồ vị tạng, là
Bể pháp thâm sâu vi diệu, cũng như hư không. Tất cả người, trời,
rồng, dược xoa, Ngạn đạt phạ, A tô la, Nga Lỗ Noa, Ma hộ la nga,
người và chẳng phải người, hết thảy khi nghe ông nói pháp tất cả đều nhóm hội
nơi đó. Nghe ông noí pháp như đại Kim Cang, khiến các hữu
tình giải thoát quả báo ràng buộc luân hồi; những hữu
tình ấy đều được phước đức. Người ở trong thành lớn Ba La Nại này
thường thấy ông cho nên các tội thảy đều tiêu diệt, cũng như lửa đốt rừng
khô. Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết rõ nơi ông.
Nay có trăm ngàn vạn vô số Câu chi na khố đa Bồ Tát, qua
đến nơi ông đồng xin thiết lễ đại hưng cúng dường phụng sự. Trời
Đại Phạm Thiên vương, trời Na La Diên, trời Đại Tự Tại,
trời Nhật Thiên, trời Nguyệt Thiên, trời Phong Thiên, trời Phong
Thiên, trơì Thủy Thiên, trời Hỏa Thiên, Diêm Ma Pháp Vương,
và Tứ Đại Thiên Vương cũng đều đến cúng dường.
Bấy giờ pháp sư nói
rằng: Thiện nam tử! Ông lại đùa giỡn đó ư? Hay là thật
có tam mong cầu? Hay là kẻ Thánh vì nơi thế gian đoạn trừ
phiền não luân hồi ấy ư?
Thiện nam tử! Nếu có được sáu
chữ Đại Minh Vương Đà Ra Ni này thì người đó không thể bị ba độc tham
sân si làm nhiễu ô, cũng như vàng báu tử ma không bị bụi dơ làm
bẩn. Thật như vậy, thiện nam tử! Sáu chữ Đại Minh vương Đà
Ra Ni này nếu có người đeo, trì tại trong thân, người đó cũng không bị nhiễm
trước bịnh tham sân si.
Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát nắm chân
pháp sư mà bạch rằng: Mắt chưa đủ sáng, mê mất đạo mầu, ai là người dẫn
đường? Tôi nay khao khát Chánh pháp, nguyện cầu ban cho pháp vị,
nay tôi chưa được Chánh đẳng Bồ đề khiến được an trụ pháp chủng Bồ
đề, sắc thân thanh tịnh không hoại các thiện, khiến các hữu
tình đều chắc pháp ấy, những người thưa hỏi lòng chớ lẫn tiếc, cúi
mong pháp sư ban pháp cho tôi “sáu chữ Đại Minh Vương”,
khiến chúng tôi mau được Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng chánh
giác, thường chuyển mười hai pháp luân, cứu độ tất cả hữu
tình ra khỏi luân hồi khổ não, pháp Đại Minh Vương này
xưa đã chưa từng nghe. Nay khiến tôi được “sáu chữ Đại Minh Vương Đà
Ra Ni”, không cứu giúp, cũng chẳng nhờ nương mà được làm nơi nương tựa,
trong đêm tối tăm làm đèn đuốc sáng.
Bấy giờ pháp sư dạy rằng:
Sáu chữ Đại Minh vương Đà Ra Ni này khó được gặp, như Kim Cang kia
không thể pháp hoại, như thấy Vô Thượng Trí, như vô
tận trí, như trí Như Lai thanh tịnh, như vào Vô thượng giải
thoát, xa lìa tham sân si luân hồi khổ não, như thiền giải
thoát tam ma địa và tam ma bát để, như vào tất cả pháp mà nơi ấy
thường được Thánh chúng ưa mến. Nếu có thiện nam tử ở các
nơi vì cầu giải thoát mà phải tuân phụng các pháp ngoại đạo như
kính thờ Đế Thích hoặc thờ bạch y, hoặc thờ thanh y, hoặc
thờ Nhật thiên, hoặc thờ Đại Tự tại thiên, Na La Diên thiên,
Nghiệt lỗ noa, hoặc trong đám ngoại đạo lõa hình, họ ưa mến những chỗ
như vậy, những kẻ ấy không được giải thoát hư vọng vô minh, có
danh gọi tu hành, mà không đắc đạo, luống uổng một cuộc đời lao
nhọc. Tất cả chúng trời: Trời Đại phạm thiên vương, trời Đế
Thích thiên chủ, trời Na La Diên, trời Đại Tự tại, Nhật
thiên, Nguyệt thiên, Phong thiên, Thủy thiên, Hỏa Thiên, Diêm
Ma Pháp Vương, Tứ Đại thiên vương mà ở đó thường khi muốn làm
sau cầu ta “sáu chữ Đại Minh vương”. Những kẻ nào đắc ta sáu
chữ Đại Minh Vương đều được giải thoát vậy.
Trừ Cái Chướng! Tất cả Như Lai Mẫu Bát
Nhã Ba la mật đa, tuyên nói sáu chữ Đại Minh vương như thế. Tất
cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các Bồ Tát, thảy
đều cung kính chấp tay mà lễ.
Thiện nam tử! Ở trong pháp Đại
Thừa này, là tối thượng tinh thuần vi diệu. Vì sao vậy? Bởi
đối với các khế kinh Đại Thừa như Úng Tụng, Thọ Ký, Phúng
Tụng, Thí Dụ, Bổn Sanh, Phương Quảng, Hy Pháp, Luận Nghị trong
đó mà đắc. Thiện nam tử! Người được bổn mẫu đây thì được Niết
Bàn giải thoát, cần gì phải nhờ nhiều ư? Cũng như thân ròng lúa nếp
của nhà mình. Đồ đựng đầy phải tràn ra, trời nắng quá thì phải khô héo, giã
sàng rê sảy thì bỏ vỏ thóc, làm thế nào để thu lấy gạo tinh. Như vậy các
bộ DU GIÀ khác cũng như lúa còn vỏ, trong tất cả các bộ Du Già.
Sáu chữ “Lục Tự Đại Minh vương” này như đã bóc vỏ thấy gạo.
Thiện nam tử! Bồ Tát được
pháp đây, tu hạnh bố thí Ba la mật đa và Trì giới, Nhẫn
nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ Ba la mật đa. Thiện
nam tử! Sáu chữ Đại Minh vương này khó được gặp, chỉ niệm một
biến thì người đó sẽ được tất cả Như Lai, lấy y phục, đồ ăn uống,
thuốc thang, và tòa ngọa tất cả đồ cần dùng để cúng dường.
Bấy giờ Trừ Cái Chướng bồ bạch
pháp sư rằng: cho tôi sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni. Bấy giờ
Ngài pháp sư chánh niệm suy nghĩ. Thoạt nhiên nơi hư không có
tiếng rằng: Thánh giả hãy ban cho sáu chữ Đại Minh
vương. Bấy giờ pháp sư kia suy nghĩ: Là tiếng âý từ đâu pháp ra?
Ở trong hư không lại phát ra tiếng rằng: Thánh giả! Nay đây Bồ
Tát gia hạnh chí cầu nên được minh ứng, cho sáu chữ Đại
Minh vương vậy.
Bấy giờ pháp sư Ngài quán thấy trong hư không Liên Hoa Thủ, Liên Hoa Cát Tường, như ánh trăng thu, đầu đảnh búi tóc đội mão báu, tất cả trí thù diệu trang nghiêm, thấy thân tướng như vậy, pháp sư bảo Trừ Cái Chướng rằng: Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, khiến nên trao cho ông sáu chữ Đại Minh Vương Đà Ra Ni, ông nên lắng nghe. Lúc ấy Trừ Cái Chướng chấp tay nép thân cung kính nghe LỤC TỰ ĐẠI MINH VƯƠNG ĐÀ RA NI rằng:
“ÚM MA NI BÁT MINH HỒNG”.
(ÁN MA NI BÁT DI HỒNG)
Khi trao cho Ngài Đà Ra Ni ấy, cõi đất
thảy đều có sáu lần chấn động. Trừ Cái Chướng Bồ Tát khi ây đắc
được tam ma địa, lại được vi diệu huệ tam ma địa. Đắc
được tam ma địa rồi, bấy giờ Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát lấy thất
bảo đầy trong bốn đại bộ châu phụng hiến cúng dường pháp
sư. Khi ấy pháp sư dạy rằng: Nay sự cúng dường chưa xứng
đáng một chữ thì làm thế nào cúng dường sáu chữ Đại Minh? Không thọ
nhận đồ ông cúng. Thiện nam tử! Ông là Bồ Tát Thánh giả hay
chẳng phải Thánh giả. Ngài Trừ Cái Chướng lại lấy các chơn châu
anh lạc giá trị trăm ngàn cúng dường pháp sư. Lúc
ấy pháp sư nói: Thiện nam tử! Nên lắng nghe tôi nói, ông
nên đem đồ cúng dường này mà dâng lên Đức Thích Ca Mâu
Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ
Tát đầu mặt đảnh lễ nơi chân pháp sư mà nói lên lòng
mong cầu được đầy đủ rồi cáo từ Ngài mà về. Trở về nơi vườn
rừng cây Kỳ Đà, về đến nơi đảnh lễ sát chân Đức Phật.
Bấy giờ đức Thế Tôn, Thích
Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dạy rằng: Thiện
nam tử! Tôi biết ông đã được sở đắc. Đúng như vậy thưa Thế Tôn!
Khi bấy giờ tại nơi ấy có bảy mươi bảy
trăm ức đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều đến nhóm
hội. Các đức Như Lai kia đồng nói Đại Chuẩn Đề Đà Ra Ni
rằng: “Nẵng Mồ Táp Bát Đa Nẫm, Tam
Miệu Ngật Tam Một Đà Câu Trí Nẫm, Đát Nễ Dã Tha: Úm - Tả Lệ Tổ
Lệ Tôn Nễ Ta Phạ Hạ.”
Khi bảy mươi bảy trăm ức Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác nói Đà Ra Ni này thì Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nơi thân
có một lỗ chân lông gọi là Nhựt Quang Minh, trong ấy có vô số trăm
ngàn vạn Câu chi na khố đa Bồ Tát. Trong lông Nhựt Quang
Minh kia có một vạn hai ngàn núi vàng, mỗi một núi ấy có một ngàn hai trăm
chót cao, chung quanh núi ấy có hoa sen báu trang nghiêm, chung
quanh có vườn cây, có như ý ma ni báu cõi trời, có các ao
tắm cõi trời có vô số trăm ngàn vạn lầu các trang
nghiêm bằng vàng báu, trên treo trăm ngàn y phục, chơn châu, anh
lạc. Trong lầu các kia có châu báu như ý mầu nhiệm, cung
cấp cho các đại Bồ Tát, tất cả đồ cần dùng đầu đủ. Bấy giờ
các Bồ Tát vào trong lầu các mà niệm sáu chữ Đại Minh, lúc
ấy thấy được địa vị Niết Bàn. Đến địa vị Niết Bàn rồi
thấy được Như Lai, thấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, lòng
sanh vui mừng khi các Bồ Tát ra khỏi lầu các rồi lại về
chỗ kinh hành, trong đó có các vườn báu, lại về đến ao tắm, rồi đến núi
báu Liên Hoa sắc, ở tại một chỗ ngồi kiết già mà nhập vào Đại
định, như thế đó thiện nam tử! Các Bồ Tát an trụ trong lỗ
chân lông kia như vậy. Thiện nam tử! Lại có lỗ chân lông gọi là Đế
Thích Vương, trong số đó có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na
khố đa bất thoái chuyển Bồ Tát. Nơi trong lông Đế Thích Vương
ấy có tám vạn núi vàng báu cõi trời, trong núi ấy có châu ma ni báu như
ý, gọi là Liên Hoa Quang, tùy tâm của các Bồ Tát ấy suy
nghĩ những gì đều được thành tựu.
Khi Bồ Tát ở trong núi ấy,
nếu nghĩ đến việc ăn uống thì liền được đầy đủ, không còn chịu
khổ phiền não luân hồi, thường khi tư duy thì thân kia
được tương hợp với sự tư duy. Thiện nam tử! Lại có lỗ
chân lông gọi là Đại Dược nơi trong ấy có vô số trăm ngàn vạn Câu
chi na khố đa Bồ Tát sơ phát tâm. Thiện nam tử! Nơi
trong lỗ chân lông kia có chín vạn chín ngàn núi, trong núi ấy có hang Kim
Cang báu, hang vàng báu, hang bạc báu, hang đế thanh báu,
hang liên hoa sắc báu, hang sắc màu xanh lục báu, hang pha để ca sắc
báu, núi vương đó có tám vạn chót cao, các thứ như ý ma ni và
các diệu báu khác trang nghiêm trên đó. Trong chót núi có chúng Ngạn
Đạt Phạ thường tấu các khúc âm nhạc êm dịu, các sơ phát tâm Bồ
Tát kia suy nghĩ: không, vô tướng, vô ngã, sanh khổ, lão
khổ, bịnh khổ, chết khổ, thương nhau xa lìa khổ, ghét nhau
gặp gỡ khổ, đạo A Tỳ địa ngục khổ, đọa Hắc Thằng địa ngục các hữu
tình khổ. Các hữu tình đoạ vào ngã quỹ thú khổ. Khi suy
nghĩ như thế thì liền ngồi kiết già phu mà nhập vào Đại
định ở trong núi ấy. Thiện nam tử! Lại có một lỗ chân lông
gọi là Hội Hoạ Vương, trong đó có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na
khố đa những vị Duyên Giác, hiện ra hào quang hỏa diệm, nơi
lỗ chân lông kia có trăm ngàn vạn núi vương, các núi vương ấy có bảy báu trang
nghiêm. Còn có các thứ cây Kiếp Thọ cành lá bằng vàng bạc, vô số trăm
báu cùng các thứ trang nghiêm, trên treo mão báu, vòng ngọc, các thứ y
phục anh lạc, treo các linh báu, áo Kiều Thi Ca, có các linh báu
bằng vàng bạc, tiếng khua âm vang lung linh mầu nhiệm, trong núi đầy
đủ các thứ cây Kiếp Thọ như thế, có vô số Duyên Giác an trụ
trong đó, thường diễn nói Khế Kinh: Ứng tụng, Thọ ký, Phúng
tụng, Thí dụ, Bổn sanh, Phương quảng, Hi pháp, Luận nghị,
các pháp như thế.
Trừ Cái Chướng! Khi ấy các Duyên
Giác ra khỏi lỗ chân lông kia, sau cùng có một lỗ chân lông gọi rằng: Phan
Vương, rộng tám vạn du thiện na; ở trong đó có tám vạn núi, các báu mầu
nhiệm và ma ni như ý trang nghiêm, trong núi vương kia
có vô số cây Kiếp Thọ, có vô số trăm ngàn vạn
cây chiên đàn hương tỏa ra mùi thơm ngọt ngào,
có vô số trăm ngàn vạn cây Đại Thọ. Lại còn có đất Kim Cang báu,
có chín mươi chín lầu các, trên treo trăm ngàn vạn chơn châu vàng báu y
phục, chuỗi ngọc anh lạc, ở trong lỗ chân lông ấy xuất hiện như
thế. Trừ Cái Chướng! Vì ông mà tôi đã nói pháp xong.
Bấy giờ Phật bảo Ngài A-Nan
Đà: Nếu có người không biết nghiệp báo, ở trong tịnh xá làm khạc
nhổ và đại tiểu tiện … Nay tôi vì ông mà nói: Nếu ở nơi đất thường
trụ thanh tịnh ấy mà khạc nhổ thì người đó sanh ở trong cây Ta
La, làm con trùng mỏ nhọn như cây kim trải qua hai mươi năm. Nếu ở
đất thường trụ mà đại tiểu tiện thì người đó sanh làm con
trùng dơ uế ở trong chỗ đại tiểu tiện nơi thành lớn Ba La Nại.
Nến lén dùng riêng của thường trụ Tam-Bảo vật chừng bằng cây tăm xỉa
răng, đọa làm loài cá trạnh, cá kình, cá sấu. Nếu trộm lấy của thường trụ Tam-Bảo
những thứ như mè, dầu, gạo, đậu … đọa vào trong ba ngã quỷ, đầu tóc bờm
xờm, lông mình đứng dựng, bụng to như núi, cổ nhỏ như kim, đốt cháy như rang
khô, chỉ bày hài cốt, người đó chịu khổ báo như thế. Nếu khinh mạn chúng
Tăng, người ấy sẽ đọa sanh vào trong nhà nghèo cùng bần tiện, sanh ra nơi nào
các căn cũng không đầy đủ, lưng gù, lùn xấu, khi bỏ thân ấy rồi lại sanh chỗ
khác, nhiều bịnh hoạn khô gầy tay chân cong quẹo, máu mủ tràn lan, da
thịt nứt nẻ chảy nước, trải quan trăm ngàn vạn tuổi chịu khổ báo như thế.
Nếu trộm lấn đất cát của thường trụ, đọa vào địa ngục rên la, ăn
nuốt hòn sắt nóng, răng, môi rơi rụng và yết hầu cháy nát, tim, gan, ruột, bụng
khắp mình hực cháy.
Khi ấy có vị Tỳ Khưu nói: Nghiệp
phong kia thổi đến chết rồi lại sống, nơi ấy Diêm Ma ngục tốt ắt
đầu tội nhơn, tự nghiệp cảm của người, sanh ra một lưỡi dài lớn,
có trăm ngàn vạn lưỡi cày sắt cày lên lưỡi ấy, chịu khổ báo trải qua nhiều
vạn năm, khi ra khỏi địa ngục ấy rồi, lại vào địa ngục vạc
dầu sôi. Diêm Ma ngục tốt dắt đầu tội nhơn, lấy trăm
ngàn vạn kim châm trên lưỡi, vì nghiệp lực nên vẫn không chết,
như vậy lần lượt vào các địa ngục, trải qua ba kiếp.
Người ấy trở lại làm thân người ở Nam Thiệm Bộ Châu, sanh vào
nhà nghèo cùng khốn khổ, đôi mắt đui mù, phải chịu những khổ báo như thế, hãy
dè dặt chớ trộm cắp tài vật của thường trụ Tam-Bảo.
Nếu Tỳ Kheo trì giới,
nên thọ trì ba y, khi vào vương cung mặc đệ nhất đại y,
thường nhựt trong chúng nên mặc đệ nhị y, làm các công vụ hoặc vào làng
xóm hoặc khi đi đường nên mặc đệ tam y. Các Tỳ Kheo nên thọ
trì ba y như vậy. Nếu trì giới thì được công đức,
được trí tuệ. Ta nói Tỳ Kheo nên trì giới luật, không
được trộm dùng tài vật của thường trụ Tam-Bảo. Như ở trong hầm lửa, ở
chốn độc dược, những nơi như thế mà ta có thể cứu khỏi được, còn
nếu trộm dùng tài vật của thường trụ thì không thể nào cứu vớt
được.
Bấy giờ Ngài A-Nan Đà bạch đức
Thế Tôn rằng: Như lời Phật dạy chúng con sẽ thực hành tu
học đầy đủ. Nếu Tỳ Kheo thọ trì giới luật, nên khéo an
trụ giữ gìn giới pháp của đức Thế Tôn.
Bấy giờ Cù Thọ A Nan Đà đảnh
lễ sát chân Đức Phật, nhiễu quanh rồi lui ra. Khi ấy các vị đại
Thanh Văn cũng đều trở về chỗ cũ. Tất cả trong thế gian,
trời, rồng, dược xoa, càn that bà, a tô la, nghiệt lỗ noa, khẩn na
la, ma hầu la già, người cùng chẳng phải ngươì, nghe Phật thuyết pháp
rồi vui mừng tin thọ lễ Phật mà lui về.
Phật nói kinh Đại Thừa Trang
Nghiêm Bảo Vương
PHẬT NÓI KINH ĐẠI THỪA
TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG
HẾT
NAM MÔ THÁNH QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT MA
HA TÁT
PHẬT THUYẾT THẤT CÂU CHI
PHẬT MẪU TÂM
ĐẠI CHUẨN ĐỀ ĐÀ RA
NI KINH
Đời Đại
Đường, Thiên Trúc, Ngài Tam Tạng Địa Bà Ha La dịch
Khi bấy giờ, đức Phật ở
nước Xá Vệ, rừng cây Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc. Khi ấy, đức Thế
Tôn quán sát suy nghĩ thương xót chúng sanh đời vị
lai, Ngài liền nói 700 ức Phật Mẫu Chuẩn Đề Đà La Ni tâm pháp. Liền nói thần
chú:
"Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đà câu
chi nẫm đát điệt tha: Úm, chiết
lệ, chủ lệ, Chuẩn Đề ta bà ha".
"Nếu có Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Ưu
bà tắc, Ưu bà di nào thọ trì đọc tụng thần chú này mãn 80 vạn biến thì những tội ngũ vô gián đã tạo từ
vô lượng kiếp đến nay hết
thảy đều được tiêu diệt. Sanh ra chỗ nào
cũng gặp chư Phật và Bồ Tát, đời sống tư sanh tùy
ý đầy đủ, đời đời thường
được xuất gia, trì đủ luật nghi tịnh giới của Bồ Tát, thường sanh nhơn thiên, không đọa ác thú, thường được chư
thiên thủ hộ. Nếu có những
người tại gia nam
nữ thường trì tụng, thì nhà kẻ ấy không có khổ não tai ương, bịnh khổ. Ra làm việc gì đều được hanh thông, nói ra lời gì đều được tín thọ.
Nếu tụng thần chú này
mãn 10 vạn biến trong chiêm bao thấy
được chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác tự
thấy trong miệng mửa ra vật đen. Nếu có ngũ nghịch
tội thì không được thấy những hảo mộng như vậy. Nên tụng mãn 70 vạn
biến thì sẽ được thấy những tướng như trước cho
đến mộng thấy mửa ra sắc trắng như sữa, cơm, vân vân thời phải biết người đó tội diệt, được
tướng thanh tịnh.
Lại nữa ta nay nói thần chú Đại Chuẩn Đề này và những việc sẽ làm: Nếu ở trước tượng Phật, hoặc nơi trước tháp, hoặc chỗ thanh tịnh, lấy cù ma di (phân trâu trắng thơm) thoa đất, làm cái
đàn vuông, tùy theo lớn nhỏ. Lại lấy
hương, hoa, tràng phan, bảo cái, đèn, nến, đồ ăn
uống, tùy sức bày biện mà cúng dường. Niệm chú trong nước hương thơm, tán sái
bốn phương trên dưới mà kiết giới. Nơi
chính giữa đàn vuông để một bình nước hương thơm. Người trì chú ở trong đàn mặt xoay về phương Đông, quỳ
gối tụng thần chú 1.080 biến,
bình nước thơm kia tự chuyển động. Tay
cầm các thứ hoa, chú vào 1.080 biến tán rải nơi mặt Kính Đàn. Lại ngó ngay trước mặt kính
đàn, cũng tụng chú 1.080 biến được
thấy hình tượng Phật, Bồ Tát. Liền đó chú trong hoa 1.080 biến mà tán
rải cúng dường, tùy theo đó mà thưa hỏi những pháp không rõ biết. Nếu có người bị quỷ mị làm
bịnh, tụng chú vào trong cỏ tranh mà
đập phủi người bịnh liền lành.
Nếu có trẻ nhỏ bị quỷ làm cho bịnh, mượn đứa gái nhỏ xe hiệp
chỉ ngũ sắc, niệm một chú là gút một gút,
đủ 21 gút, đeo vào cổ. Hoặc lấy bạch giới tử (hạt
cải trắng) tụng thần chú mãn 7 biến,
ném vào mặt người bịnh qủy mị, tức liền được lành. Có pháp, ở trước người bệnh,
vẽ hình tượng bịnh nhơn, tụng thần chú trong nhánh dương liễu mà đánh nơi hình
vẽ ấy cũng được lành bịnh. Có pháp, nếu người bịnh quỉ ở xứ xa, nên chú nguyện trong nhánh dương liễu đủ 7 biến, gửi
người cầm đem về đánh người bịnh tức lành. Còn có pháp nữa, nếu người đi đường
mà tụng chú này, không có trộm cướp
các ác thú sợ
hãi. Pháp nữa, thường trì chú này
nếu có sự tranh tụng thì mình được thắng hơn. Nếu qua đò, sông biển lớn, tụng chú mà đi thì không bị nạn ác thú trong
nước. Có pháp, nếu thân mình bị cùm trói, giam cầm, trì tụng chú này được
giải thoát. Lại có pháp, nếu trong nước mưa nắng không điều độ, dịch bịnh lưu
hành, nên lấy bơ hoà với dầu mè, bột gạo, dùng ba ngón tay lấy một dúm,
bảy ngày bảy đêm 6 thời như vậy nối nhau không dứt, tất cả tai nạn thảy đều tiêu
diệt.
Lại có pháp nữa, nơi trên mé sông lớn, dùng cát đắp hình tượng tháp, tụng
chú một biến ấn thành một
tháp, mãn 60 vạn biến, thấy được các thánh giả như Quán Thế Âm Bồ Tát, Đà La (Tàrà) Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ
Tát (Vajrapani) tùy tâm sở cầu đều được thành
tựu đầy đủ. Hoặc thấy trao cho thuốc
tiên, hoặc thấy được thọ ký quả Bồ Đề.
Lại có pháp nữa, hữu nhiễu hình tượng cây Bồ Đề. Tụng chú mãn 1,000 vạn biến tức thấy Bồ Tát vì người đó mà nói pháp, muốn theo Bồ Tát liền được tùy
tùng.
Lại có pháp nữa, nếu khi khất thực thường
trì tụng chú này, không bị người ác và
loài chó dữ làm não hại. Nếu ở trước tháp,
trước tượng Phật, trước tháp Xá Lợi tụng trì chú
này 30 vạn biến. Đến bạch nguyệt (ngày
15) thiết lễ đại cúng dường, một ngày một
đêm không ăn chỉ chính niệm chú, cho đến thấy được Kim
Cang Thủ Bồ Tát, Bồ Tát sẽ đem
người ấy vào cung điện mình.
Lại có pháp nữa, trước Chuyển Pháp
Luân Tháp, trước tháp Phật Đản Sanh,
trước tháp bảo giai từ Đao Lợi xuống, trước tháp như vậy, hữu nhiễu tụng chú,
tức thấy A Bát La Thị Đa Bồ Tát, và A Lợi
Để Bồ Tát, tùy chỗ sở nguyện đều được đầy đủ. Nếu cần thuốc tiên liền
trao cho thuốc tiên. Lại vì nói pháp chỉ Bồ Tát đạo,
nếu có người tụng Đà La Ni này cho đến chưa ngồi đạo
tràng mà tất cả Bồ Tát thường
làm bạn hữu. Chuẩn Đề Đà La Ni này là Đại
Minh Chú, quá khứ tất cả
chư Phật đã nói, vị lai tất cả Phật sẽ
nói, hiện tại tất cả Phật đang nói, Ta
nay cũng nói như vậy. Vì lợi ích tất
cả chúng sanh, khiến được vô thượng Bồ Đề.
Nếu có chúng sanh bạc phước, không chút căn lành, người không có căn khí, không có phần pháp Bồ Đề, nếu được nghe pháp Đà La Ni này mau chóng chứng đắc được vô
thượng Bồ Đề Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nếu có người thường hay nhớ niệm tụng trì chú này, vô lượng thiện căn đều
được thành tựu.
Khi Phật nói pháp Đại Chuẩn Đề Đà La Ni này, vô
lượng chúng sanh viễn trần ly cấu, đắc được đại minh chú công
đức Đại Chuẩn Đề Đà La Ni thấy được 10 phương chư Phật Bồ Tát và các thánh
chúng, những vị ấy lễ Phật mà lui về.
PHẬT THUYẾT THẤT CÂU CHI PHẬT MẪU TÂM
ĐẠI CHUẨN ĐỀ ĐÀ RA NI KINH
HẾT
THẤT PHẬT CÂU CHI PHẬT MẪU TÂM
ĐẠI CHUẨN ĐỀ ĐÀ RA NI PHÁP
Đời đường, Ngài Thiện Vô Úy, phụng
chiếu dịch Độc Bộ biệt hành
Nam Ma Táp Đa Nẫm, Tam Miệu Tam Bột Đà Câu
Chi Nẫm, Đát Nễ Dã Tha: Úm - Chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề Ta Phạ Ha.
Tổng nhiếp 25 bộ đại mạn trà la ni ấn.
Lấy 2 ngón tay, ngón vô danh,
ngón tay út, tréo với nhau lại bên trong lòng bàn tay, hai ngón tay
giữa thì đứng thẳng, hai ngón tay trỏ co vịn vào tiết thứ nhất của hai ngón tay
giữa, hai ngón tay cái nắm tiết giữa của ngón vô danh bên trái và bên
mặt. Nếu có triệu thỉnh, đưa qua đưa lại 2 đầu ngón tay trỏ.
Phật dạy: "Thần chú này có công
năng diệt tất cả những tội nặng như tội ngũ nghịch, và tội thập
ác, thành tựu tất cả bạch pháp. Trì giới đầy đủ thanh
khiết mau chứng Bồ Đề.
Nếu người tại gia không thể
đoạn dứt vợ con, rượu thịt, chỉ y pháp của ta (Phật) trì tụng
đều được thành tựu".
Phật dạy: "Nếu muốn cầu thành
tựu, trước phải y Đàn pháp. — đây không đồng như các bộ khác, phải rộng
tu cúng dường, cuốc đất thoa hương, mới kiến lập được đạo
tràng. Chỉ lấy một cái kính soi mặt mới chưa từng dùng, để trước tượng
Phật, vào đêm tối rằm, tháng nào cũng được, tùy sức trang nghiêm cúng
dường, xông an tức hương, và nước tịnh thủy, trước phải tịnh tâm tuyệt
dứt tư duy tạp niệm. Nhiên hậu kiết ấn tụng chú, chú vào
trong Kính Đàn 108 biến rồi lấy kính bỏ vào trong hộp hhay đãy vải mới.
Thường giữ gìn tùy thân. Sau này mỗi khi muốn trì niệm chỉ
lấy kính này, để trước mặt kiết ấn tụng chú, y Kính Đàn tức
được thành tựu.
Phật dạy: "Muốn trì chú này,
phải tối ngày rằm, tắm rửa sạch sẽ, mặc toàn y phục mới, mặt hướng
về Đông phương ngồi kiết bán già, thân thật ngay thẳng, để kính trước
mặt, tùy sức có các vật hương, hoa, nước tịnh thủy, trước phải tịnh
tâm, tuyệt dứt tư duy, nhiên hậu kiết ấn để ngang ngực, tụng
chú này 108 biến. Tụng trì chú này thời có công năng khiến chúng
sanh thọ mạng ngắn ngủi được trở lại tăng tuổi thọ.
Bệnh già ma la tật là bệnh nan y còn được trừ lành, huống gì các bệnh
khác mà không được lành thì thật là vô lý.
Phật dạy: "Nếu người một lòng
tuyệt dứt tạp niệm, tụng mãn 20 vạn biến, 40 vạn biến, 60 vạn biến, cầu những
pháp thế gian hay xuất thế gian đều được vừa lòng toại
ý."
Phật dạy: "Nếu người ở tại
gia, bình thường mỗi buổi sáng mai là thời chưa ăn ngũ tân và
đồ huyết nhục, dùng nước tịnh thủy súc miệng sạch sẽ, mặt hướng về
phương Đông, đối kính đàn kiết ấn, tụng thần chú 108 biến, cứ
thường nhật như vậy, cho mãn 40 ngày không dứt, sẽ có việc lành tốt
đẹp, đức Chuẩn Đề Bồ Tát khiến 2 vị thánh thường theo người ấy, tâm
người ấy mong muốn điều chi, đều ở 2 bên tai mách nói đầy đủ.
Phật dạy: "Có chúng sanh yểu
mạng nhiều bệnh hoạn, tối ngày rằm mỗi tháng, xông an tức hương, kiết
ấn tụng chú 108 biến, những loài ma qủy thất tâm (điên loạn),
loài dã hồ ác bịnh, đều hiện bổn thân nơi trong Kính Đàn, giết hay
tha tùy ý không dám tái đến, tăng thọ vô lượng."
Phật dạy: "Nếu người không có
tướng phước đức, cầu quan không toại ý, hãy đối Kính Đàn mà
thường tụng chú này, thì phước đức quan vị quyết được vừa
lòng".
Phật dạy: "Nếu người muốn ra làm
việc chi, trước nên nghĩ tưởng thánh tượng Chuẩn Đề thân
ngồi ngay thẳng, chánh niệm chú này mãn đủ 7 biến, trong chừng giây
lát, tự nhiên lay động, tức biết công việc mình làm ra sẽ thành
tựu tốt. Nếu thân cứng đơ ngã trước ngã sau, tức biết không
thành, chắc có tai nạn".
Phật dạy: "Nếu muốn biết pháp này
thành hay không thành, phải y pháp tụng chú, mãn đủ 7 ngày, liền
trong chiêm bao mộng thấy Phật và Bồ Tát ban cho hoa
trái, miệng mửa ra vật đen, sau lại ăn vật trắng, tức biết thành tựu.
Phật dạy: "Đà La Ni này có thế
lực rất lớn, chí tâm tụng trì quyết phải tự chứng.
Có công năng khiến cây khô phát sanh hoa, trái, huống gì nhũng quả
báo ở thế gian. Nếu thường trì tụng thì thủy, hỏa, đao binh, oán
gia độc dược đều không hại. Nếu người bị quỷ thần làm bịnh
chết, kiết ấn tụng chú này 7 biến, lấy ấn, ấn nơi tại ngực đều
khiến sống trở lại. Gia đình, nhà cửa ở không yên, bị quỷ
thần gây họa, trì chú, chú vào bốn hòn đất, đem trấn 4 phía thì liền
đi.
Phật dạy: "Nếu người trong lục
thân không hòa, không nghĩ tình thương nhau, nên y pháp tụng
chú hướng về lục thân thì được hòa hợp nghe tên thấy
thân đều được hoan hỷ. Phàm cầu việc gì cũng vừa lòng toại tâm.
Huống người trai giới đầy đủ, nhất tâm thanh tịnh y
pháp tụng trì, thì nhất định chuyển thân này tức chứng Bồ
Đề có được công lực.
Phật dạy: "Nếu người muốn trường
sanh, đến nơi tháp cổ xưa, hoặc trong núi sâu, hoặc nơi phòng tịnh thất, y
kính làm Đàn Pháp, tụng thần chú này mãn 20 vạn biến, 40 vạn
biến, 60 vạn biến, dùng hoa sen xanh trộn với hương an tức thiêu
đốt cúng dường, khi ngủ mộng thấy trong mộng ăn thuốc tiên hoặc
trao cho tiên phương, hoặc trong kính đàn phóng hào quang có
thuốc tùy ý lấy ăn, tức được trường sanh."
Phật
dạy: "Nếu y pháp tụng trì, nhất
tâm tinh cần, thì công lực nói không
thể hết.
Kính Đàn pháp này không được cho người khác thấy nếu thấy thì không tốt, mất linh nghiệm, không được thành tựu viên mãn. Pháp này cần phải bí mật, không được tuyên nói, hãy tự mình chứng biết. Tùy ý mong cầu quyết được thành tựu thọ hưởng được cái vui nhiệm mầu thù thắng".
THẤT PHẬT CÂU CHI PHẬT MẪU TÂM
ĐẠI CHUẨN ĐỀ ĐÀ RA NI PHÁP
HẾT
THẤT CÂU CHI ĐỘC BỘ
PHÁP
Tam Tạng Sa Môn Vô Úy dịch
Tổng hai mươi lăm bộ Mạn Noa La ấn. Lấy hai ngón vô danh ngón út, tréo nhau lại nơi bên trong, hai
ngón tay giữa thẳng đứng, hai ngón tay trỏ vịn vào tiết thứ nhất của ngón tay
giữa, hai ngón tay cái nắm tả hữu tiết
giữa của ngón vô danh. Nếu muốn triệu thỉnh, hai đầu ngón tay trỏ đưa qua đưa
lại.
Phật dạy: Chú ấn này có công năng diệt trừ thập ác ngũ nghịch tất cả trọng
tội. Thành tựu tất cả bạch pháp công đức. Tu hành pháp này không lựa kẻ tại gia hay xuất gia.
Nếu người tại gia chưa đoạn rượu
thịt vợ con, chẳng lựa kẻ tịnh người
uế. Chỉ y pháp Ta (Phật) đều
được thành tựu.
Tóm lại có năm pháp:
1. Đàn pháp,
2. Niệm tụng pháp,
3. Thành nghiệm pháp,
4. Quảng minh tự tại pháp,
5. Thiên đắc đại thần túc.
1.- Đàn pháp: Phật
dạy: Nếu cần thành
tựu trước phải làm đàn pháp,
không đồng như các bộ khác mà phải rộng tu cúng
dường, cuốc đất làm đàn, thoa hương kiến
lập. Chỉ lấy một cái kính mới chưa từng dùng, để trước tượng Phật, tối ngày rằm tháng nào cũng được, tùy sức cúng dường,
thiêu an tức hương và nước tịnh thủy, trước phải tịnh
tâm dứt hẳn tuy duy tạp niệm. Nhiên hậu kiết ấn tụng chú,
chú vào trong kính một trăm lẻ tám biến bỏ vào hộp hoặc đãy vải, thường đem theo hành trì.
Khi muốn tụng trì chỉ đem kính này để
nơi trước mặt, kiết ấn tụng chú,
y kính làm đàn pháp, tức được thành tựu.
2.- Niệm tụng pháp:
Phật dạy: Muốn trì pháp này, tối ngày
rằm tắm rửa sạch sẽ, mặc y phục mới thanh tịnh, mặt hướng về phương đông, ngồi bán già
ngay thẳng, để kính nơi trước, tùy sức hương hoa nước tịnh
thủy và các thứ thanh tịnh cúng dường, trước phải tịnh
tâm tịnh tâm tuyệt dứt tạp
niệm. Nhiên hậu kiết ấn để ngang ngực
tụng Thần chú này một trăm lẻ tám
biến. Trì tụng chú này, khiến người
yểu mạng ngắn được tăng trưởng mạng.
Bệnh Già Ma La Tật còn được trừ lành,
huống các bịnh khác. Nếu không trừ
lành thì không có lẽ đó. Mỗi tháng ngày mồng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29
và 30. Mười ngày như vậy mỗi sáng bình minh lấy nước tịnh thủy súc miệng sạch sẽ, mặt hướng về đông phương tụng chú này
108 biến, nhiên hậu mới ăn uống thì giả như có vợ con,
rượu thịt, ăn đồ ngũ tân cũng sẽ được
thành nghiệm.
3.- Thành nghiệm pháp:
Mỗi tháng từ ngày 18 lấy Kính đàn và kiết ấn niệm tụng, trừ mười ngày trai ra, ngoài các ngày khác
không đối kính và kiết ấn cũng được.
Chỉ nên mỗi buổi sáng bình minh là thời chưa ăn ngũ
tân rượu thịt, tụng trì chú
này 108 biến, trong bốn mươi chín ngày không dứt thì mỗi khi có những việc thiện ác, kiết
tường, tai biến, đức Chuẩn Đề khiến hai vị Thánh thường theo mình
người đó mà mách bảo, có việc tốt xấu gì lòng mình được biết. Trì chú này 7 biến, rửa mặt sái thân tâm tưởng hoan
hỷ, hay khiến quốc vương, đại thần, trưởng giả sanh tâm cung
kính, thấy tức hoan hỷ như thần
kính vua, như tấm lòng cha mẹ yêu thương con, tùy
theo ý muốn cho đến thân mạng cũng
không luyến tiếc, thảy đều được thành tựu.
Nếu có chúng sanh mạng
hệ ngắn ngủi nhiều bịnh diên niên, tối ngày rằm của tháng, xông an tức hương, tụng Chơn
ngôn này một ngàn biến, ma quỷ thất
tâm cuồng chạy, hồ cầm ác quỷ đều hiện
thấy hình nơi Kính đàn, bảo giết tức giết, bảo thả tức thả, bèn không dám tái
đến, được tăng trưởng thọ mạng vô lượng.
Nếu có người vô phước vô tướng,
cầu quan chẳng được, nghèo cùng khốn khổ, mỗi mười ngày trai thường tụng chú này, hay khiến hiện đời được phước báu
như Chuyển luân vương vị, mong cầu
quan vị quyết được thành tựu toại
lòng.
Nếu người muốn đi đâu và làm việc gì, trước nên tư duy đức Thánh Chuẩn
Đề, tâm niệm chú này mãn đủ 7
biến, thân ngồi ngay thẳng trong giây lát, thân ấy tự nhiên lay động
tức biết thành tựu kết
quả tốt đẹp. Nếu thân cứng đơ hướng trước
hướng sau, tức biết không thành, quyết có tai nạn.
Nếu muốn triệu thỉnh Tứ Thiên Vương, Phạm
Vương, Đế Thích, hai mươi tám bộ
Thiên Ba Tuần … Kiết ấn tụng chú đầu
ngón tay trỏ đưa qua đưa lại. Ở chỗ thanh tịnh cao
thinh tụng 21 biến, Hiền Thánh, Diêm La Vương, quỷ chúng, tủy thỉnh quyết đến không
dám trước sau chậm trễ, nếu có sai sử điều chi tùy thỉnh đều được.
Nếu muốn biết pháp này thành tựu hay
không thành tựu, y pháp tụng chú mãn
đủ bảy biến, trong mộng thấy Phật, Bồ Tát và
các hoa quả, miệng mửa ra vật đen, lại ăn
vật trắng, tức biết thành tựu.
3.- Quảng minh tự tại: Phật nói pháp Đà Ra Ni này rất có đại thế lực, dời núi
Tu Di và nước biển lớn. Chú vào cây khô phát sanh hoa trái. Nếu
thường trì tụng nước không thể chìm, lửa không thể thiêu, độc dược, đao binh, oán bịnh thảy đều không thể
hại.
Nếu biết trong đất có vật bảo tàng, kiết ấn tụng chú mãn
đủ 7 biến, phục tàng trong đất tự nhiên vọt
lên, tùy lòng mong muốn đều được đầy đủ. Quân trận giặc nạn, kiết ấn, ấn chỉ nơi
đó tùy chỗ thảy đều thoái tán.
Nếu bị quỷ thần làm
bịnh chết, kiết ấn tụng chú 7 biến, lấy ấn, ấn nơi tại ngực, người
bị trọng bịnh chết kia liền sống trở lại.
Nếu nhà ở không yên
bị quỷ thần làm họa, chú vào trong bốn
hòn đất đem trấn bốn hướng, quỷ thần liền đi, nhà ở được yên.
Nếu trong lục thân quyến thuộc không hòa
thuận nhau, không thương yêu nhau, y pháp tụng chú hướng
về chỗ ấy tức được hòa hợp, nghe thấy tên
mình sanh lòng hoan hỷ, muốn không rời
bỏ.
Trong lửa cháy mạnh dùng ấn chỉ vào,
lửa liền tiêu diệt. Lấy ấn chỉ nước, sóng nước đều tịnh. Phàm có sở cầu đều được toại lòng. Huống nữa hay kiết ấn, trai giới, y pháp trì tụng mà không chuyển nhục thân thẳng
đến Tây phương Tịnh Độ.
5.- Thiên đắc đại thần túc: Nếu cầu trường
sanh và sai sử các Tiên lấy các tiên
dược. Nơi trước tháp xưa và chốn thâm sơn, hoặc trong phòng tịnh thất y kính làm đàn. Mãn đủ 7 ngày hoặc 21
ngày, xông hoa sen xanh và an tức hương, đầu hôm tụng
chú 108 biến liền nên ngủ nghỉ hoặc ở trong mộng ăn được thuốc tiên, hoặc nhiếp
thủ phương pháp, hoặc trước Kính đàn có hào quang năm sắc, trong hào quang có thuốc tùy
ý uống dùng liền thành Tiên đạo. Còn có các công lực khác trăm ngàn vạn ức, nói không thể
hết.
THẤT CÂU CHI ĐỘC
BỘ PHÁP
HẾT
CHUẨN ĐỀ BIỆT PHÁP
TỊNH PHÁP GIỚI ẤN:Trước hết lấy tay trái, ngón trỏ,
ngón vô danh, ngón út, ba ngón để trong
lòng bàn tay, lấy ngón tay cái nắm trên đầu ngón tay trỏ, ngón vô danh và ngón út. Tay mặt cũng vậy, hiệp lại
bằng nhau, hai ngón tay giữa đứng thẳng, tụng Thần
chú.
KIẾT GIỚI ẤN: Hai tay trái, mặt, ngón giữa,
ngón vô danh, hướng về bên trong tréo nhau,
hai ngón út đứng thẳng, hai ngón tay trỏ đứng thẳng, hai ngón tay cái nắm tiết
giữa của ngón tay trỏ, tụng Thần chú.
HỘ THÂN ẤN: Hai tay chấp lại, hai ngón tay trỏ
hướng ngoại tréo nhau, ngón tay cái nắm trên tiết giữa của ngón tay trỏ, từ
ngón tay giữa xuống ba ngón đứng thẳng hiệp lại. Nếu gặp đạo tặc, đem ấn này để trên đảnh, trước ấn vào vai bên
trái, kế ấn vai bên mặt, nơi trước ngực, ấn lên trên đầu xuống giữa mi
gian. Quyết định không dám xâm
hại.
TRỊ BỊNH ẤN: Hai ngón tay trỏ, hai ngón tay giữa bốn ngón, hương bên
trong tréo nhau, hai ngón vô danh,
hai ngón tay út, bốn ngón hướng bên ngoài thẳng nhau chấp lại, hai ngón
tay cái nắm tiết giữa của ngón tay trỏ.
TỔNG NHIẾP ẤN: Tay trái tay mặt, ngón út, ngón vô
danh, tréo vào trong lòng bàn tay, hai ngón tay giữa đứng thẳng đầu ngón
hiệp nhau, mở hai ngón tay trỏ co vịn vào. Hai ngón tay cái đè lên ngón vô danh. Khi muốn triệu
thỉnh, hai đầu ngón trỏ đưa ra vào, dường như hoa đài tọa. Tụng Thần
chú 7 biến, dùng ấn hai bên bắp tay gần vai, rồi đến yết hầu, đến
dưới mái tóc nơi mi gian. Lại liền để ngang ngực ấn tại nơi tâm, tụng chú 108 biến.
PHÁ THIÊN
MA ẤN: Tay trái mặt bốn ngón đe ngón tay cái trong lòng bàn tay
hình như cầm cú. Tức là chỗ nào có sự lo sợ, nghi có quỷ mị độc long, tức kiết ấn này
tiếng giận hét, tụng Thần chú.
THỈNH QUỶ
THẦN ẤN: Tay mặt ngón giữa đè ngón cái, đè đàn, trên các ngón kia
đều mở duỗi ra như hình cái răng, ngón tay trỏ hơi cong một chút, ngón tay út
ra vào qua lại, tụng Thần chú 7 biến.
Ba lần ba biến thì tất cả quỷ thần liền
đến.
CHUẨN ĐỀ BIỆT PHÁP
HẾT
Tỳ
Khưu Thích Viên Đức hành Du Già hạnh
Dịch xong tại Tịnh thất chùa Dược Sư
Ban Mê Thuột, ngày 7-8 năm Quý Sửu
(3-9-1973)
KINH THÁNH LỤC TỰ TĂNG
THỌ ĐẠI MINH ĐÀ RA NI
Tây thiên dịch kinh Tam Tạng,
Triệu Tán Đại phu, Thí Hồng Lô Khanh, Truyền Pháp Đại Sư, Thần Thí
Hộ phụng chiếu dịch Phạn ra Hán.
Sa Môn Thích Viên Đức dịch thành Việt văn.
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức
Phật ở tại nước Xá Vệ, rừng cây Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc. Lúc
đó tôn giả A Nan, đắc đại trọng bịnh, Phật Ngài tự biết, liền đến nơi ấy
trải tòa mà ngồi, dạy A Nan rằng: “Ông nay lắng nghe, tôi có Thần
chú lục tự Đại Minh, hay tiêu tai hoạn, tăng ích thọ
mạng. Ông nếu thọ trì, chẳng những tự thân, còn khiến bốn chúng Tỳ
Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, đêm dài an ổn, xa
lìa các khổ.
Lại nữa A Nan, lục tự Đại
Minh Thần chú này, bảy mươi bảy trăm ức Đức Phật và sáu
Đại Oai Đức Sư đều đồng tuyên nói. Sáu Đại Sư ấy: Một
là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Hai là Đế Thích Thiên Chủ.
Ba là Đa Văn Thiên Vương. Bốn là Trì Quốc Thiên Vương. Năm là Tăng
Trưởng Thiên Vương. Sáu là Quảng Mục Thiên Vương. Thánh Hiền như
vậy, khác miệng đồng lời, nói Thần chú rằng:
“Nan Để Lê Nan Để Lê Nan Đổ Lị Lô Ma Lị Bán Noa Lị Câu Quan
Trí Ma Độ Ma Đế Ta Phạ Hạ”.
Phật dạy A Nan, lục tự Đại
Minh Chương Cú này có đại oai lực. Nếu lại có người trong nạn vương
pháp sợ hãi, trong nạn nước lửa sợ hãi, trong nạn lửa lớn sợ hãi,
trong nạn giặc cướp sợ hãi, trong nạn oan gia sợ hãi, trong các
ác nạn sợ hãi, trong chiến đấu sợ hãi, trong nạn ác diệu (sao
xấu) sợ hãi, các nạn như vậy khi hại đến thân. Một lòng xưng niệm Đại
Minh Chương Cú, ủng hộ đệ tử … khiến được giải thoát,
nói lời ấy rồi, các thứ nạn ấy liền được tiêu trừ.
Lại nữa A Nan, nếu các hữu
tình, các bịnh đau nhức, đau đầu, đau cổ, đau mắt, tai mũi, răng nướu lưỡi đau,
môi miệng má đau, ngực hông vai đau, tim đau, bụng đau, lưng đau, háng đau,
khắp thân đau nhức. Dịch tả kiết lỵ, bịnh trĩ nhọt rò, phong bịnh vàng da, đàm
suyễn khó thở, các bịnh nặng dữ. Như trước xưng niệm Đại
Minh Chương Cú, Phật đại oai đức liền sai tất cả Nhật,
Nguyệt, Tinh Tú, La Hán Thánh Hiền, phát lời chân thật,
cho đệ tử tên … nên phải ủng hộ, dứt trừ tai hoạn,
khiến được an vui. Nơi có đạo kiếm và các thuốc độc, cọp, beo, sư tử, bò
cạp, rắn rết, các cầm thú dữ, đều chẳng dám hại; bệnh rét chẳng bị,
chẳng trúng thiên thời, cho đến A Ba Ta, Ma La Bộ Đa, Tỳ
Xá Tả, Cưu Bàn Trà thảy, tất cả quỷ tướng, đều phải xa lìa,
chẳng dám gây hoạn.
Lại nữa A Nan, nếu các hữu
tình bị loài quỷ mị, suốt năm chầy tháng mà chẳng bỏ rời, lấy Thần
chú này gia trì nơi chỉ, đeo tay người bịnh thì Kim Cang
Thủ, Đại Dược Xoa Chủ dùng sức phẫn nộ, đập đầu quỷ mị,
khiến bể bảy phần. Lại còn sai khiến Đại Trí Xá Lợi Phất,
Đại Thần Thông Mục Kiền Liên, Trì Giới La Hầu La và ông A
Nan Đà đều đến ủng hộ, khiến được an vui. Nếu không được
vậy, núi Tu Di Vương, dời đi nơi khác , nước đại biển
lớn liền phải khô cạn, mặt trời mặt trăng đều phải rơi rớt, quả
đất lớn này băng ra từng mảnh. Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác đều không vọng ngữ. A Nan! Lục tự Đại Minh Đà Ra
Ni này thần thông oai đức chưa từng có được. Nếu vui mừng nghe
học, người ấy thường được sống lâu không bịnh, các ác không hại, huống gì thọ
trì đọc tụng, biên chép, cung kính cúng dường. Chính là pháp
thành tựu tối thượng tăng ích. A Nan nghe rồi tín thọ
phụng hành.
KINH THÁNH LỤC TỰ TĂNG
THỌ ĐẠI MINH ĐÀ RA NI
HẾT
LỤC TỰ THẦN CHÚ VƯƠNG KINH
Khai
Nguyên Thập Di biên, lục chép ra trong đời Lương.
Thích Viên Đức dịch Hán ra Việt.
Như thật tôi nghe, một thời Phật
ở tại nước Xá Vệ, trong rừng cây Kỳ Đà. Lúc bấy giờ có một người nữ ngoại
đạo Chiên Đà La, chuyên làm các ác vẽ phù yếm đảo. Hoặc thờ thần núi, thần
cây, quỷ thần dưới gốc cây. Nhật, Nguyệt, Ngũ Tinh, Nam Đẩu Bắc
thần, hết thảy vọng lượng, các ma tà mị. Yếm hoặc tôn giả A Nan Đà và
các người lành khác, hằng hà sa số như vậy. Khi ấy đức Như Lai nhơn
thấy ông A Nan Đà tinh thần hoảng hốt, Ngài vì thương xót tất
cả hữu tình ba đời liền nói lục tự Thần chú vương kinh này.
Trước chư Phật đã nói, Ta (Phật) nay cũng nói, tức nói chú rằng:
An Đà Lệ, Bát Đà Lệ, Ca La Chi Sí Do Lệ, Đế Xà Bà
Đế, Tần Đầu Bà Đế, Đà Đầu Lệ, Đà Cưu Đế Lệ, Đà Cưu Ma Đế, Tu Ma Đế, An Đà
La Bàn Đà La, Đàn Đà la Đề Đâu La, Đà Na Diên
Đà, Mạn Đà Bà Đế, A Na A Na Dạ, Ma Đậu Ma Bà Đế, Ca
La Tra Sí Do La Phù Đắng Dà Di, Đế Ám Bà Đế, Tần Đầu Ma Đế,
A La Bà Dà Đế, Tỳ Tra Tỳ Đề Nị, Chất Tra Tỳ Đề Nị, Chất Tra Tỳ Đề
Nị Ta Bà Ha.
Nếu có kẻ nào làm ác chú trù yếm, nếu
đã làm rồi, hoặc đang làm. Hoặc trời, hoặc ma, hoặc rồng, hoặc dạ xoa,
hoặc la sát, hoặc ngã quỷ, hoặc cưu bàn trà, hoặc phú đơn
na, hoặc tỳ xá xà, hoặc a ba ma la, hoặc ưu ba ma la, hoặc kiết
giá, hoặc khư ủ đà, hoặc tỳ đà la, hoặc bán tỳ đà la, hoặc Sa
Môn, hoặc Bà la môn, hoặc Sát lơị, hoặc Tỳ xá, hoặc thủ đà,
hoặc ma đăng già, hoặc ma đăng già nữ, hoặc chiên đà la,
hoặc chiên đà la nữ, hoặc tôi tớ, hoặc nam nữ, hoặc ngoại
đạo ni càn đà, hoặc ngoại đạo xuất gia nam, nữ, các
thứ như vậy v.v…hoặc hay chú ếm trù rủa trùng độc.
Ta (Phật) nay lấy lục tự Thần chú
vương kinh này, nếu làm yếm trên trời thì trên trời liền
diệt. Nếu làm yếm dưới trời thì dưới trời liền diệt. Nếu hướng trên làm yếm thì
hướng trên liền diệt. Nếu hướng dưới làm yếm thì hướng dưới liền diệt. Nếu trên
vách làm yếm thì trên vách liền diệt, nếu làm yếm dính nơi vách thì nơi vác
liền diệt. Nếu yếm trong đám mây mù thì trong đám mây mù ấy
liền diệt. Nếu làm yếm trong hư không thì trong hư không ấy
liền diệt. Nếu làm yếm trên mặt đất thì trên mặt đất liền diệt. Nếu
yếm dưới đất thì dưới đất liền diệt. Nếu làm yếm tám phương
xa thì tám phương xa liền diệt.
Nếu bên trong trên dưới bốn phương làm yếm thì ở trong trên dưới bốn phương
liền diệt. Nếu theo ngọn gió thổi làm yếm thì theo trong ngọn gió thổi liền
diệt. Nếu bên trong nước bốn biển lớn làm yếm thì bên trong nước bốn biển lớn
liền diệt. Nếu trong bên mé sông Hoài sông Hồng làm yếm thì trong bên mé sông
Hoài sông Hồng liền diệt. Nếu bên trong bờ đường đi làm yếm thì bên trong bờ
đường đi liền diệt. Nếu bên trong các vũng nước làm yếm thì bên trong các vũng
nước liền diệt. Nếu bên trong núi, suối, khe, hang, đồi, gò, hầm làm yếm thì
bên trong núi, suối, khe, hang, đồi, gò, hầm liền diệt. Nếu bên trong năm núi
lớn làm yếm thì bên trong năm núi lớn liền diệt. Nếu bên trong đầm, rừng, gành
lớn làm yếm thì bên trong đầm, rừng, gành lớn liền diệt. Nếu bên trong cỏ cây
lớn, cây nhỏ làm yếm thì bên trong cỏ cây lớn, cây nhỏ liền diệt. Nếu bên trong
rễ nhánh cây cỏ làm yếm thì bên trong rễ nhánh cây cỏ liền diệt. Nếu bên trong
đường đi tắt lớn nhỏ làm yếm thì bên trong đường đi tắt lớn nhỏ liền diệt. Nếu
bên trong ngã tư đường lớn nhỏ làm yếm thì bên trong ngã tư đường lớn nhỏ liền
diệt. Nếu bên trong ngoài cửa thành lớn, thành nhỏ, phường, thôn làm yếm thì
bên trong ngoài cửa thành lớn, thành nhỏ, phường, thôn liền diệt.
Nếu trong nội thành lớn, nhỏ, phường,
thôn làm yếm thì trong nội thành lớn, nhỏ, phường, thôn liền diệt. Nếu bên
ngoài cửa nội ngoại cung làm yếm thì bên ngoài cửa nội ngoại cung
liền diệt. Nếu trong cửa cung làm yếm thì trong cửa cung liền diệt. Nếu bên
trong mồ mả làm yếm thì bên trong mồ mả liền diệt. Nếu bên trong nhà cửa, liêu,
xá, thành, tường làm yếm thì hết thảy đều tiêu diệt. Nếu nơi mái nhà làm
yếm thì nơi mái nhà liền diệt. Nếu bên cây cột làm yếm bên cây cột liền diệt.
Nếu dưới đá tán cây cột làm yếm thì dưới đá tán cây cột liền diệt. Nếu bên
trong đống đất phân yếm thì bên trong đống đất phân liền diệt. Nếu bên trong
giếng, bếp, cối giã, cối xay yếm thì bên trong giếng, bếp, cối giã, cối xay
liền diệt. Nếu yếm bên trong hỏa lò thì bên trong hỏa lò ấy
liền diệt. Nếu yếm bên trong nhà tiêu, chuồng thú thì bên trong nhà tiêu chuồng
thú liền diệt. Nếu yếm bên trong dụng cụ xe lớn, xe nhỏ thì bên trong dụng cụ
xe lớn xe nhỏ liền diệt. Nếu yếm bên trong đồ phục sức yên ngựa thì
bên trong đồ phục sức yên ngựa liền diệt đó. Nếu yếm nơi giường,
chõng, áo, mền, nỉ, nệm, giày, mão, nơi bên trong các đồ đựng thì bên trong
giường, chõng, áo, mền, nỉ, nệm, giày, mão, các đồ đựng liền diệt. Hoặc bên
trong tất cả đồ ăn uống làm yếm thì bên trong tất cả đồ ăn uống liền
diệt. Nếu yếm gần bên người và nơi tất cả chỗ đi, đứng, nằm, ngồi hết
thảy như vậy đều tiêu diệt.
Nếu ngày làm thì ngày diệt, nếu đêm
làm thì đêm diệt. Nếu ngày đêm thường làm thì ngày đêm diệt. Thần chú này
có công năng đoạn tuyệt Đế Thích chú đạo, hay đoạn
tuyệt Phạm thiên chú đạo, hay đoạn tuyệt Tứ Thiên Vương chú
đạo và tất cả các chú đạo huyền thuật đã có của tà quỷ hết thảy đều đoạn dứt.
Nếu có bị kẻ nào chú ác yếm trùng, trù rủa cùng độc dược thảy
đều tiêu diệt. Hoặc Khư Ủ Đà, hoặc Tỳ Đà La, hoặc Kiết Giá,
hoặc Phú Đơn Na đã làm thảy đều đều diệt trừ hết các ác,
các thiện trợ giúp. Nguyện nhờ chú này thường được an lành, dùng chơn thật
chương cứu này, khiến đệ tử ngày an, đêm an, đêm ngày thường an. Sống
lâu trăm tuổi, được thấy trăm thu. Bởi vì sao? Trong thế gian bậc Tối
Thượng không ai hơn Phật. Các trời tôn trọng, chúng thần phụng
ngưỡng. Nếu có kẻ hành ác chú đạo, nếu đã làm hoặc đang làm, hay trong thời
gian làm, hoặc thành tựu hay chưa thành tựu cũng thảy
đều tiêu diệt và tất cả các độc hay hại người. Chỗ nào có Lục tự
Thần chú Vương Kinh này, hoặc đọc tụng hoặc thọ trì nhớ
niệm, các ác nghiệp trọng chướng đã có thảy đều tiêu diệt.
Tức nói chú rằng:
Khư Chi Khư Trụ Khư Tỳ Chi, Giam Thọ, Giam Thọ, Đa Chi, Bà
Chi, Ta Bà Ha.
Nếu có kẻ nào làm ác trù rủa, nếu
đã làm hoặc đang làm. Hoặc Trời, hoặc Rồng, hoặc Dược xoa, hoặc La
sát, và tất cả kẻ làm ác chú trù rủa thảy đều tiêu diệt. Hoặc
Khư Ủ Đà, hoặc Tỳ Đà La, hoặc Phú Đơn Na đã làm thảy đều tiêu
diệt, các ác tiêu tan các thiện trợ giúp, nguyện nhờ chú này thường
được an lành, dùng chơn thật Chương Cú này, khiến đệ tử … ngày
an đêm an, đêm ngày thường an. Sống lâu trăm tuổi, được thấy trăm thu. Bởi vì
sao? Tối thượng trong thế gian không qua phép Phật. Trời
người cung kính, chúng ma vâng phụng, ly dục không nhiễm.
Tức nói chú rằng:
Khư Chi Khư Trụ Khư Tỳ Chi, Giam Thọ, Giam Thọ, Đa Chi, Bà
Chi, Ta Bà Ha.
Vì cớ sao? Tối thượng trong thế
gian không ai hơn Tăng, lương thiện phước điền, hiền Thánh cung
kính, các thiện ủng hộ. Tức nói chú rằng:
Khư Chi Khư Trụ Khư Tỳ Chi, Giam Thọ, Giam Thọ, Đa Chi Bà Chi
Đâu Đế, A Nĩ Đế, A Châu Đế, Ta Ba Ha.
Nếu kẻ nào làm ác chú trù rủa,
hoặc hòa hợp độc dược, hoặc chơn, hoặc ngụy, đã làm phi pháp.
Hoặc thân trước hoặc thân này, làm các ác nghiệp, tất cả trọng tội thảy
đều tiêu diệt. Tức nói chú rằng:
Ma hưu bà ô ma đế, ô ma đà đồ đà nĩ, khư
ủ đà bà để đồ đà nĩ tần đầu ma đề, chất đế chất đa đề
bà đồ đà nĩ, a bệ chiên a bệ, ta bà ha.
Nếu có người hay tụng trì lục
tự Thần chú Vương Kinh, giả sử kiến chú vào cây khô, có thể được hoàn
sanh nhánh lá, huống gì thân người, khiến người ấy được sống lâu trăm tuổi,
được thấy trăm thu. Chư Phật đã nói, A Nan đã truyền. Nếu người đọc
tụng thông suốt, đều tự hộ mình, các ác lìa thân, các điều thiện nhóm tụ.
Nếu chú nguyện cho người khác, hay trừ các ác khổ hoạn cho người
ấy. Người đọc tụng phải đoạn dứt ngũ tân, chí tâm thanh
khiết, nhiên hậu mới làm. Các nạn hung họa không còn dư sót, đều được cát
tường lợi ích. Tức nói chú rằng:
Ha ha giá lị, ha ha na di, ha ha phù đà ma đề, ha ha
ni ha trá, ni cù sa, ha ha ni ha đà, khư ủ đà, ni tỳ sa khư ủ đà, i nĩ di
nĩ, đà tệ, đà đà tệ, ta bà ha.
Kính lễ Tam-Bảo, kính lễ Thánh
Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như Lai. Kính lễ hết
thảy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Kính lễ Thánh A
Phược Lô Chỉ Để Thấp Phạ La Ma Ha Tát Đỏa, quy mạng như
vậy rồi, vậy sau nói Thần chú, mong nhờ Thần chú này
thường an lành. Kính lễ Thánh A Phược Lô Chỉ Để Thấp Phạ
La, quán chiếu thân con (câu này xưng ba lần) thương xót con.
Tức nói chú rằng:
Ô ha ni mộ a ni a đà ni a đà tỳ a đà xà
tỳ ni đam tỳ ni, an đà lệ, bát đà lệ, tử bì đề, an đà la bà tử
ni, tát lục đậu suất tra, ba la đậu suất tra, chất đảm diêm bà dạ,
đam bà dạ, ma ha dạ da bà mậu la, đề na mậu giá đề, lô lụ
chất tra na đà tử, lô lụ lô lậu chất tra bát đà tử, ta bà ha.
Chú này hay hộ tất cả ách nạn, vô
cấu thanh tịnh giải thoát quang minh quán chiếu, cột trói
tất cả kẻ tặc làm ác, không có mê hoảng, người niệm lành được cứu độ tất
cả các ác ma nạn, hiện đời ủng hộ ngã thân, sư tử, voi
điên, cọp beo, chó sói, khỉ, vượn và các ác cầm thú muốn hại người,
khiến thảy bị trói. Tôi nay vì đệ tử … và cùng bạn đồng hành.
Tất cả chú lực hướng đên chỗ nào đi đứng nằm ngồi nguyện thảy bình an. Tức
nói chú rằng:
Tri Hê Rị, Tri Rị, Thâu Rị Ma Đắng Kỳ, Chiên Đà Rị Xoa La Xoa
La La Da Ta Bà Ha.
Kính lễ Tam-Bảo ắt nguyện chú này,
khiến đại cát tường, khéo dùng chú pháp này, ngày đang dùng ấy tắm rửa
sạch sẽ, y phục thanh tịnh, thân tâm điềm tĩnh, không được
hành dâm, không ăn ngũ tân, không uống rượu thịt, không nói lời ác, phải
lấy chỉ trắng, tay nắm giăng ra, tụng chú 7 biến, một biết một gút.
Làm dây thành rồi, nếu có quan sự, bị lời thị phi, hoặc gặp tranh cãi,
hoặc trù chú rủa, hoặc bàn mưu sàm tấu, vu cáo bậy bạ, và tất cả các
ác, lấy chú gút này đeo nơi áo người, những nạn như trên thảy đều tiêu
diệt. Sau việc qua rồi, thỉnh Phật Pháp Tăng thiêu các danh
hương, trai Phạn cúng dường, thâm tu cầu phước, bi kỉnh báo Phật từ
ân, chủ tự mở gút, phát đại nguyện rằng: Con cùng tất
cả tứ sanh, vĩnh tuyệt bát nạn, sở nguyện cùng tâm. Tức nói
chú rằng:
Hê đậu ma đế da xá bà đế, bà la sa thiên
bà đế, ô thọ bà đế, uất đa la ni, a xoa dạ bà đế, a nâu thiên đế mục
xí bà la bà mục đế, bà la bà chỉ đậu ta ha.
Kính lễ quá khứ vị lai hiện
tại tất cả Thường trụ Tam-Bảo.
Kính lễ Thánh Trí Hải Biến
Chiếu Trang Nghiêm Vương Như Lai.
Kính lễ tất cả Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác.
Kính lễ Thánh A Phược Lô Chỉ Để
Thất Phạt La tiêu phục độc hại cứu khổ đại bi giả.
Kính lễ Mạn Thù Thất Lợi Bồ
Tát, Tam Mạn Đa Bạt Đạt La Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát, Khí Ấm Cái Bồ
Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Huệ Thượng Bồ Tát, Thường Bất Ly Thế Bồ
Tát, Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, Hư Không Tạng, Bảo Tràng, Khổng
Tước Vương Đà Ra Ni, Lục Tự Chương Cú, Dược Vương Dược Kiên
Ý, Bất Ô Hạnh Đẳng Bồ Tát Ma Ha Tát. Xưng các danh hiệu quy y như
vậy, hết thảy Thánh chúng đắc đạo. Vậy sao nói Đà Ra Ni Thần chú này.
Tức nói chú rằng:
Ca ra ni ma đế, tỳ dũ đa ni, dà đế bà ra tỳ, da xá thủ la
bà lệ, đà đề nâu đề tán đà bà đề, xá đà mục khư, uất đa
la ni, xá đà bà ra tỳ xá tỳ thiên đà, ca rị xa, bà tát
na bà dà đế, cưu xá la bà bà ni, a nâu sang đế tỳ san đế tri đế,
a tri đế, than na dà đế, a than na dà đế, a bà ta rị, a xá ta ra nĩ, bà
la nĩ mục lệ, mâu ra mâu ra bà đà lệ, xá ni bà ra lục, tu lê bà
đế thù đế bà la lục, tu tỳ ma lệ yêm ma lệ, ta ha.
Chú này hay trừ hết thảy tối tăm, Như
Lai truyền trì, chư Thiên kính thọ. Thiện thần hộ niệm, Phạm
thiên giải bày. Đế Thích kính thờ, ủng hộ cõi đời, các
Thánh thấu rõ, chư Tiên thọ trì, các họ hòa hợp, giải thoát ràng
buộc, hết thảy các trời và cùng các người, dứt các phiền não, hàng
phục ma oán, chế phục ngoại đạo, bẻ gãy các lỗi kiêu mạn.
Các Pháp sư đàm luận tranh tụng đều được vượt thắng, căn
lành tăng trưởng, thân tâm thanh tịnh, không bỏ đại chúng,
vui các học pháp, giữ gìn kinh điển, pháp tạng thâm sâu, lợi
ích Tam-Bảo, thương xót tất cả loài chúng sanh, trang
nghiêm chúng nghĩa, có hết thảy lợi ích lớn như vậy, nên gọi
là Vô Tận Tạng Đà Ra Ni Chương Cú, chẳng phải hộ pháp mà
hay hộ, nếu có người hay đọc tụng, biên chép, thọ trì hoặc
khuyên người biên chép, cho đến lấy hương hoa cúng dường kinh
quyển ấy, thì được vô ngại ba mươi hai nạn sợ hãi. Người
dùng chú pháp này sớm chiều tắm gội sạch sẽ, súc miệng rửa tay, y phục thanh
tịnh, thắp hương chí tâm đảnh lễ, đọc tụng ba biến như vậy
xong rồi, chỗ ra làm việc gì, lời nói đàm luận bốn chúng chiêm
ngưỡng, hướng đến phương nào cũng được cát tường. Mọi người quy
kính, thấy đều vui mừng, oan gia vâng thuận. Các ông A Nan
Đà hết thảy nên phải một lòng phụng trì Đà Ra Ni Chương Cú này. Khi nói
pháp đây, tất cả Trời, Rồng, Bát Bộ, Quỷ Thần, nghe Phật Ngài nói,
đều đại vui mừng làm lễ mà trở về.
LỤC TỰ THẦN CHÚ VƯƠNG KINH
HẾT
KINH ĐẠI THỪA
TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG
Lời giới thiệu
Lời Tựa
1. Kinh Đại Thừa Trang
Nghiêm Bảo Vương
2. Kinh Thất Câu Chi
Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni
3. Thất Câu Chi Phật Mẫu
Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni Pháp
4. Thất Câu Chi Độc Bộ
pháp
5. Chuẩn Đề Biệt pháp
6. Kinh Thánh Lục Tự Tăng Thọ Đại Minh Đà La Ni
7. Lục Tự Thần Chú Vương
Kinh
Comments
Post a Comment