( Trì tụng UM! BÚT RUM! HÙM! đến KHI tương tục không gián đoạn, THÌ tấc cả vọng niệm không sanh khởi sẽ thấy LINH NGHIỆM hay QUÁN 1 chữ PHẠN BỘ LÂM hiện ra rõ ràng sẽ thấy LINH NGHIỆM )
Quán Thế
Âm Bồ Tát lại bạch Phật:
"Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng
sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác, tôi thề không
thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cõi
Phật, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được
vô lượng tam muội biện tài tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú
Đại Bi tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này
không được gọi là Đại Bi tâm đà ra ni, duy trừ cầu
những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành.
KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN
VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ÐÀ LA NI
LỜI GIỚI THIỆU
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Cùng
quý Phật tử trong mười phương.
Bộ
kinh MẠT PHÁP ĐÀ LA NI này, trong ấy còn có các bộ kinh Mật giáo thuộc vào
trong Đại tạng kinh về phần Mật bộ.
Hôm
nay Sa môn Thích Viên Đức đã trích dịch những bộ kinh tinh hoa của Mật giáo để
lưu truyền các pháp môn thù thắng bí mật cho những ai hữu duyên với pháp này.
Nay
tôi xét thấy Sa môn Viên Đức có nhiều công phu nghiên cứu phiên dịch các kinh
thuộc Mật bộ với lòng mong muốn pháp môn được lưu truyền cho hậu thế. Tôi hết lòng
tùy hỷ cầu lên Tam Bảo chứng minh gia bị cho việc làm lợi lạc này tiếp tục mãi
và thành tựu viên mãn để báo ân Phật.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát.
Phật lịch 2519. Mùa hạ năm Giáp Dần.
Hòa Thượng THÍCH HÀNH TRỤ
Hiệu PHƯỚC BÌNH
Chứng
Minh
LỜI TỰA
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lễ đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni
và ba đời chư Phật mười phương.
Kính lễ Tôn Pháp Đà La Ni trong ba
đời mười phương.
Kính lễ chư Bồ Tát và Hiền Thánh Tăng trong ba
đời mười phương.
Con hôm nay dịch các phần kinh thuộc
Mật giáo bộ thành chữ Việt trong tập sách này đã xong xuôi. Con chí thành đốt
nén tâm hương dâng lên đức Thế Tôn trong cõi Niết Bàn thấu rõ chứng minh cho
con. Với tài hèn kém này con không sao tránh khỏi những lỗi lầm khi phiên dịch.
Con xin thành tâm sám hối cầu mong đức Thế Tôn và chư Bồ Tát xá tội cho con.
Như lời kinh dạy: “Hãy chí thành viết một chữ hay truyền cho kẻ
khác chừng một câu thì công đức phước báu vô lượng”. Vậy con được bao nhiêu phước
báu với khả năng phiên dịch các kinh này của con, con nguyện đem phước này hồi
hướng cầu mong cho quốc gia Việt Nam sớm thanh bình, Phật giáo Việt Nam thịnh
vượng thống nhất và hết thảy pháp giới chúng sanh phát lòng Bồ đề đồng
chứng quả Phật
Sau nữa con xin thưa với các vị thiện
tri thức trong mười phương, khi xem có chỗ nào sai lầm, con
cầu mong quý ngài hoan hỷ chỉ giáo cho con để lần tái bản được thập toàn viên
mãn.
Phật lịch 2519.
Ngày 19-8-1974 (3-8 Giáp Dần)
Kính bút
Dịch giả: Sa Môn THÍCH VIÊN ĐỨC
KINH ÐẠI ÐÀ RA NI MẠT PHÁP TRUNG
NHẤT TỰ TÂM CHÚ
Ðại
Ðường, Thiên Trúc, Ngài Tam Tạng
Bảo Tư
Duy phụng chiếu dịch Phạn văn ra Hoa ngữ.
Sa Môn
Thích Viên Ðức dịch thành Việt văn.
Như thật tôi nghe, một thời Ðức Phật ở cõi Trời Tịnh Cư, các thứ trang
nghiêm không thể nghĩ bàn, tất cả chúng Bồ Tát an trụ trong hội ấy, cùng các
Thiên Long, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tô La và hết thảy tinh tú Thiên Tiên, đều
là những vị Thập Ðịa Bồ Tát phương tiện hóa hiện ở nơi hội này.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngồi trên Liên Hoa Tạng thế giới, quán xét hết
thảy đại chúng các Trời và Thiên Tiên. Vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh thời
mạt thế sau này, Ngài nhập nơi đảnh Tam muội của tất cả Như Lai tối thượng đại
Chuyển Luân Vương, liền ở giữa chặng mày phóng một đại hào quang, hào quang kia
chiếu khắp mười phương thế giới hết thảy các Phật sát, trong ấy chúng
sanh nào gặp được ánh hào quang thảy đều vui mừng. Hào quang kia chiếu khắp
rồi, trở về đến chỗ Phật nhiễu quanh ba vòng rồi nhập vào đảnh của đức Như Lai,
đương khi nhập vào lại hiện ra các tướng trang nghiêm, trong hào quang ấy thoạt
nhiên có tiếng: “Ta là Nhất Tự Chú Ðại Chuyển Luân Vương”. Vô lượng Thiên Tiên
đoanh vây cung kính.
Bấy giờ trong hào quang lại phát ra tiếng bảo đức Thích Ca Như Lai rằng:
“Ta là tất cả Như Lai Trí huệ Chuyển Luân Vương Nhất Tự Tâm chú”.
Với tất cả quá, hiện, vị lai, hết thảy chư Phật. “Ta là Tối thượng Bí Mật Tâm
chú”. Phật Bảo Cái, Phật Ta La Thọ Vương, Phật Vô Lượng Quang, Phật Vô Thắng,
Phật Diệu Nhãn, Phật Diệu Tràng, Phật Hoa Vương, các Phật kia, các Ngài khắp
đều đã nói, hết thảy vô lượng quá khứ chư Phật cũng đều tùy hỷ. Ngài, nay sẽ vì
vị lai chúng sanh, diễn bài chú đây, khiến các chúng sanh được đại lợi ích. Bấy
giờ đức Thế Tôn thấy nghe đó rồi, bảo các đại chúng: Các ông nên biết, thế nào
gọi là: “Nhứt Tự Chuyển Luân Vương Chú”.
Liền đó nói chú rằng: BỘ LÂM
(Bột Lung hay Bột Lỗ Úm).
Khi bấy giờ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo các chư Thiên Tiên chúng: “Các
ngươi hãy lắng nghe, đây là Diệu Cát Tường Ðồng Tử Ðà Ra Ni”. Ta nay muốn nói
pháp MẠN ÐÀ LA (Ðàn pháp), phép niệm tụng và pháp hỏa thực, khiến chóng thành
tựu. Hoặc nếu có người năng trì Diệu pháp tối thắng Ðà Ra Ni này, hoặc không
biết ngày cát tường và các tinh sao v.v… Các chư Thiên Thần chớ nên vì đó mà
làm chướng ngại. Hoặc nếu có người hay tu hành các giáo pháp của ta, thì các
chúng chư Thiên phải hộ trì người ấy, tất cả quỷ thần và hết thảy độc ác Tỳ Na
Dạ Ca cũng phải giữ gìn gia hộ không được làm tổn hại, hơn nữa phải phương tiện
mà hộ niêẹm, với mười lực trong kinh giáo khiến sanh lòng tin hiểu. Nói lời ấy
rồi liền nhập vào chánh định, gọi là “Tất cả Như Lai đảnh sanh Tam muội” có
công năng trừ diệt nghiệp bất thiện của các hữu tình.
Khi ấy đức Thế Tôn nhập vào chánh định kia rồi, mười phương chư Phật quan
sát thấy Như Lai tại Thanh tịnh Thiên cung, mỗi mỗi đều vân tập đến hội này,
cùng nhau cung thỉnh đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Thần chú mà thuyết kệ rằng:
Phật nói đại oai đức
Vì lợi các hữu tình
Hay thành hết thảy chú
Nguyện ấy đều đầy đủ.
Tất cả Phật đã nói,
Chú Vương này oai đức
Hay ở trong các chú
Một chữ làm Tôn thượng.
Ðảnh sanh đại oai đức
Sức kia khó nghĩ bàn,
Khéo trừ các y tà
Thoái các ác tinh tú.
Ðộc hại mẫu thần thảy
Và Na Dạ Ca kia,
Ác loại các quỷ thần,
Ép bức hữu tình ấy.
Sau này trong đời trược,
Tụng trì được an vui,
Lành thay! Thầy trời người,
Nguyện vì chúng sanh nói.
Khi ấy, mười phương chư Phật nói tụng này rồi vắng lặng mà an trụ, đang khi
ấy ba ngàn Ðại Thiên thế giới, tất cả chỗ trụ xứ của hữu tình, trong ấy thoạt
tiên phóng đại hỏa diệm oai quang sáng đỏ rực rỡ, vẫn đều không thương tổn một
loại hữu tình. Bấy giờ Ðức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, quán sát hết thảy Thanh
tịnh Thiên cung, dạy các đại Bồ Tát và các Duyên Giác, Thanh Văn, Thiên Tiên
cùng các đại chúng rằng: Các ông lắng nghe, liền nói tụng rằng:
Bảo các Phật tử thảy,
Các ông nay lắng nghe,
Ta nay nói chú này,
Ðầy đủ các công đức,
Sau này khi đời ác,
Pháp ta sắp muốn diệt,
Hay ở trong thời ấy,
Hộ trì Mạt pháp ta,
Hay trừ ác thế gian,
Ðộc hại các quỷ thần,
Và các Thiên, ma, nhơn,
Hết thảy các chú pháp,
Nếu nghe danh chú này,
Thảy đều tự nép phục,
Sau khi ta diệt độ,
Phân khắp Xá lợi rồi,
Sẽ ẩn các tướng tốt
Biến thân làm chú này,
Phật có hai thứ thân,
Chơn thân và Hóa thân,
Nếu hay cúng dường ấy,
Phước đức không có khác,
Chú này cũng như thế,
Tất cả các trời, người,
Thường sanh lòng hy hữu,
Thọ trì và cúng dường,
Ðã được các công đức,
Như thân ta không khác,
Công đức chú vương này,
Ta nay chỉ lược nói.
Khi ấy đức Thế Tôn nói tụng này rồi, vì các chúng trong hội này nói pháp
Chuyển Luân Vương Như Lai Ðảnh Kế. Có công năng hay khiến các pháp của kẻ khác
liền chóng hủy hoại, hay khiến tự pháp của mình chóng đắc thành tựu. Hết thảy
Bồ Tát đều đồng khen ngợi. Ở chỗ niệm tụng, chu vi bốn phương năm trăm dịch nội
(500 trạm, 1 trạm 30 cây số). Tất cả ác quỷ đều tự chạy trốn. Hết thảy chú Sư thọ trì bổn pháp, nghe
chú này rồi thảy đều hủy diệt. Tất cả các trời đã có thần thông thảy đều thối
thất.
Người trì chú này muốn diệt pháp kẻ khác, hay không diệt pháp kẻ khác, do
người trì chú để niệm nơi ấy. Tất cả thế gian và xuất thế gian các kẻ trì chú
và các ác tinh thảy đều bẻ gãy.
- Nếu kẻ thiện nam, vì hộ Ðại Thừa, hoặc vì tự thân, hoặc đối oán địch, nên
lấy một nắm cỏ xanh, niệm Thần chú này, chú vào 108 biến, ý giận người kia lấy
dao chém cỏ, niệm nghĩ hoại diệt pháp kia, tức liền hủy diệt.
- Nếu muốn khiến người trước kia, chú pháp của họ không thành tựu, tụng chú
này bảybiến, lấy tay nắm lại, ý thuộc người kia, tức không thành tựu.
- Nếu muốn khiến người trước kia không thành tựu ấy, tức mở nắm tay ra,
liền trở lại được như cũ.
- Nếu người muốn làm phép này, trước phải tắm rửa sạch sẽ, mặc y thanh
tịnh, phép mình làm liền được thành tựu.
- Nếu muốn hộ trì cho người khác, tất cả ác quỷ, đều không dám gần, người
trì chú này hộ được thân mình và thân kẻ khác. Kêu gọi quỷ thần, sai khiến quỷ
thần, mưu cầu sự nghiệp, đều dùng chú này.
- Nếu trì các Thần chú mà không có thần lực hiệu nghiệm, nên tụng Thần chú
này một trăm vạn biến, liền được thành tựu, sở đắc cảnh giới, nếu không có hiệu
nghiệm thì vị thần kia sẽ tức tiêu diệt.
- Nếu muốn Thiên thần đến để sai sử, nên lấy dầu mè, bơ, mật, sữa chín hòa
lại. Lấy một ít, mỗi nhúm đọc Thần chú một biến, bỏ vào trong lư lửa thiêu, mãn
một trăm lẻ tám biến, mỗi ngày ba thời cho đến nội trong bảy ngày, vị thần kia
liền đến, vì mình làm kẻ sai sử.
- Nếu muốn hàng phục chư Thiên, lấy một trăm lẻ tám miếng rau đắng, cứ mỗi
miếng tụng chú một biến bỏ vào trong hơ lửa.
- Nếu muốn hàng phục vị thần nào thì niệm đến danh tự vị ấy, mỗi ngày ba
thời làm phép, đến nội trong bảy ngày, vị ấy liền đến hàng phục.
- Nếu muốn hàng phục các Long nữ, lấy bơ, mật, sữa mỗi ngày ba thời, tụng
chú 108 biến, bỏ vào trong hơ lửa thiêu đốt, nội trong bảy ngày tức được thành
tựu.
- Nếu hàng phục kẻ Dược Xoa và Dược Xoa nữ, làm y như pháp trước, lấy sữa
chín, cơm, thiêu đốt, liền được thành tựu.
- Nếu muốn hàng phục Kiền Ðạt Phạ và kẻ nữ ấy, thiêu tất cả hương, làm y
như pháp trước, thiêu các thứ hoa, tất cả Bát Bộ nữ thần liền đến để hàng phục.
- Nếu muốn hàng phục Chơn Bà la môn, lấy danh hoa tốt và hột cải trắng, làm
y như pháp trước liền được như ý.
- Nếu muốn hàng phục những người Phiệt Xá, lấy bơ, sữa, phô ma làm y như
pháp trước, liền được thành tựu.
- Nếu muốn hàng phục Thú Ðạt La, lấy bơ, đất hòa lại làm y như pháp trước.
- Nếu muốn hàng phục tất cả người ác và các ác tinh tú, lấy bơ và dầu mè,
thiêu cũng y như pháp trước, như trên đã nói, cần phải nội trong bảy ngày, ngày
ba thời thiêu những thuốc thơm, tắm rửa sạch sẽ, tụng chú 108 biến, tức được
thành tựu.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói lời ấy rồi, gọi Ngài Văn Thù Sư Lợi dạy rằng:
Trong chú pháp của ông có những oai lực như trên, đối với đời mạt thế sau này,
pháp đây hay khiến tất cả chúng sanh, hành dụng thọ trì, lại có các thứ pháp
khác nữa, ta nay chỉ lược nói, nói lời ấy rồi.
Bấy giờ đức Thế Tôn vắng lặng mà an trụ, khi ấy bốn bộ đại chúng, bạch đức
Thế Tôn rằng:
- Bạch Thế Tôn! Cầu xin Ngài mở lòng từ bi, nói các phương pháp để cho
chúng sanh ở mạt thế sau này được An-Lạc lợi ích.
Bấy giờ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại quán sát thanh tịnh Thiên Cung, dạy
Ngài Diệu Kiết Tường đồng tử rằng: Ông nên lắng nghe! Ta nay lược nói một chữ
chú Chuyển Luân Vương oai đức và phương tiện họa tượng, vì khiến các hữu tình
trong đời ác thế ít tinh tấn kém trí huệ sáng suốt, không thể thọ trì rộng pháp
họa tượng, cho nên ta nay chỉ lược nói phương pháp họa tượng vì muốn lợi ích
các hữu tình, mau được nghĩa kiết tường.
Nếu muốn thọ trì pháp tối thắng thì hãy lấy một lụa trắng mới, dài một
trượng, rộng sáu thước (một trượng bằng 10 mét Tàu), chưa cắt chỉ, không nên lấy keo làm màu sắc. Họa sư vẽ tượng phải nấu
nước hương thơm, tắm rửa sạch sẽ, mặc y mới thanh tịnh, thọ trì Bát Quan trai
giới, nên họa tượng đức Thế Tôn làm Chuyển Luân Vương, dung mạo đang nói pháp,
làm chủ tất cả thế giới. Dưới tòa họa Thánh Phạm Vương, Ngài Bồ Tát Kim Cang,
phía trên tượng đức Thế Tôn vẽ Thiên tử rưới những tràng hoa, dưới tòa vẽ người
trì chú.
Khi bấy giờ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại nhìn Ngài Diệu Kiết Tường đồng tử
mà bảo rằng:
-Diệu Kiết Tường đồng tử hãy lắng nghe, một chữ chú Chuyển Luân Vương có
đại oai đức, ta nay lược nói phương pháp họa tượng khiến cho chúng sanh ở đời
ác sau này được An-Lạc vậy.
- Nếu muốn làm pháp ấy, tay cầm lư hương chăm nhìn mặt Ðức Phật, tượng ấy
để xây về hướng Tây, trước tượng dâng các hương hoa cúng dường, người trì chú
pháp mỗi ngày ba thời, thiêu trầm thủy hương, mặt hướng về tượng Phật mà tụng
chú cho mãn một trăm vạn biến, sau mơi làm các phép.
Người trì pháp này nên cần phải trì giới thanh tịnh, thường ăn ba thứ bạch
thực, nghĩa là: sữa, bơ, gạo, lúa mạch, không được phá trai, đối với tất cả
chúng sanh phát tâm từ niệm, trì giới Bồ Tát, người này phàm muốn ra làm việc
công đức và trị lành tất cả bịnh, đều được như ý, thường cần phải cúng dường
hết thảy Tam-Bảo.
-Nếu muốn thành tựu luân Pháp, lấy thép tốt làm một bánh xe Pháp luân, bánh
xe kia có hai cái trục quay, để nơi trước tượng Phật, lập một cái đàn vuông,
theo tháng từ ngày mùng một đến ngày mười lăm, mỗi ngày ba thời, tắm rửa sạch
sẽ, thiêu trầm thủy hương, tụng chú đến 100 vạn biến, thường lấy các thứ hoa mà
cúng dường, hết ngày mười lăm rồi thì làm một cái đàn, trong đó để bánh xe Pháp
luân, hai tay bưng lên chí tâm tụng chú. Bánh xe Pháp luân liền hiện ra lửa
sáng, người đang trì pháp này có thể bay lên hư không, ở trong Minh chúng làm
được Tiên chủ, nếu các người khác thấy cũng được bay lên hư không.
- Nếu muốn thành tựu Tán Cái pháp, làm một tán cái trắng mới và các thứ
vàng bạc vật báu trang nghiêm, ở trong ấy treo một cái tràng phan, tay cầm Tán
Cái ấy, như pháp trước mà tụng chú, liền có ánh lửa phát ra, người tu trì pháp
này liền bay lên hư không, như trên đã nói.
- Nếu muốn làm phép, lấy ngày bạch nguyệt mười lăm và ngày của năm tiết,
nghĩa là tháng: ngày mùng tám, ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày hai mươi ba
và ngày hết tháng, thân mình được biến hóa, nội trong mười lăm ngày quyết được
thành tựu. Nếu thành tựu pháp này thì tất cả các pháp cũng được thành tựu, được
tất cả thần thông cùng những pháp của chư Phật và Bồ Tát. Ở trong thế giới này
làm bậc vua Chuyển Luân Vương, có Thiên tử hầu hạ chung quanh.
- Nếu muốn làm Phật Ðảnh pháp, dùng vàng hoặc bạc hoặc đồng hoặc lạp (một
thứ chì với thiết pha lộn) lớn cỡ một bàn tay, như Ðảnh Phật, y pháp như trên
mà tụng chú. Ðảnh kia phát ra ánh lửa sáng, liền được bay lên hư không, cùng
tất cả chúng sanh nói pháp, sống lâu một đại kiếp.
- Nếu muốn thành tựu pháp bình như ý, nên làm một cái bình bằng vàng, để
tất cả hột lúa cùng hạt thuốc và các thứ vật báu bỏ đầy trong bình kia, trên
bình che phủ một tấm vải lụa trắng tinh sạch, ngày mùng một tháng chạp bắt đầu
khởi công tụng chú, đến một chu niên (giáp năm) tức được thành tựu, ở trong bình ấy khi cần các vật thường
lấy không hết.
- Nếu muốn được bình báu như ý, hoặc vàng, hoặc báu (các
thứ ngọc quý), hoặc thủy tinh, giống như pháp
trước, cũng lấy vải phủ lên, tụng chú một năm liền được thành tựu, chỗ mong cầu
gì đều được, hoặc ở trên trời hoặc ở trong nhân gian, tay cầm cái bình báu này
tức làm được vua Chuyển Luân Vương, đối trước tượng Phật kia, tụng chú vạn vạn
biến, liền bay lên hư không, sống lâu một đại kiếp.
- Nếu muốn thành tựu phép Kim Cang xử, lấy gỗ đàn hương tía, đẻo một cái
Kim Cang xử, nếu không có gỗ đàn hương tía lấy sắt làm như hình cái thoi cũng
được, lấy năm vật của con trâu mà rửa đó, năm vật của con trâu là: sữa, bơ, phô
ma, phân trâu, nước tiểu trâu, thường lấy tháng chạp ngày mười lăm, đối
trước tượng Phật, thanh tịnh mà rộng bày các món cúng dường, thắmg 100 chén
đèn, lấy bơ làm dầu. Lại nữa, nấu nước hương thơm rửa Kim Cang xử, người trì
chú pháp đem thân bố thí tất cả chư Phật và Bồ Tát, sau rồi tụng Thần chú
Chuyển Luân Vương để hộ thân mình, đến đêm ngày mười lăm vào khoảng canh hai,
lấy tay mặt cầm Kim Cang xử phải ở trước tượng Phật, nhất tâm tụng chú, Kim
Cang xử kia thoạt nhiên hiện ra lửa sáng, tất cả Thiên Tiên, các Long, Quỷ v.v…
cùng hết thảy các bộ chúng đều đến, đem người trì chú pháp vào xứ Minh Tiên,
liền sáng lập làm vua, oai lực thân của người này đồng như Ngài Kim Cang Bồ
Tát, nếu ý mình muốn đi đến chỗ nào, tùy ý không có ngăn ngại, sống lâu một đại
kiếp, có thể thấy chỗ đức Di Lặc Bồ Tát nói Chánh pháp, nếu muốn cầu sanh về
nơi nào thì tự tại như ý liền được vãng sanh.
- Nếu muốn thành tựu pháp Hùng hoàng thì lấy Hùng hoàng tốt một lượng, thứ
mà ban đêm hiện ra ánh sáng, ba ngày nhịn ăn, lại thiết lễ cúng dường vật thực
cho chúng Tăng, trước mặt chúng Tăng chấp tay cầu xin tấn chỉ sự tu hành của
mình, nếu chúng Tăng đã hứa khả cho rồi thì cúng dường đức Thế Tôn, đối với tất
cả chúng sanh phải phát lòng thương xót, trước tượng Phật thắp một ngàn chén
đèn, lấy bơ làm dầu, người trì chú tự thân mình cúng dường chư Phật, làm pháp
này rồi, xin khất nguyện, lấy Hùng hoàng tụng chú. Nếu hơi nóng phát ra, hoặc
khói bốc lên, hoặc lửa sáng xẹt ra, ba tướng ấy hiện ra rồi lấy một chút Hùng
hoàng điểm ở giữa chặn mày, tất cả Thiên, Long, Quỷ, Thần cùng người và phi
nhơn liền đến phụng sự, người trì chú kia sống lâu ngày năm. Nếu điểm ở trên
trán tức không có hiện thân, nhưng Thiên thần cũng không thấy, nếu muốn cầu
hiện thì cũng được tùy ý, sống lâu ba ngày năm, nếu phát ra ánh lửa, tức thành
tựu Minh Tiên, nếu có đồng bạn thấy cũng được bay lên hư không, thù thắng hơn
các bậc Tiên nhơn, sống lâu một kiếp. Nếu bỏ thân này được sanh về cõi trời Ðổ
Sử Thiên.
- Nếu muốn thành tựu pháp Chấp Kích, lấy sắt tốt làm một cái kích, thời
gian một chu niên, cầm kích ấy tụng chú, lấy cát làm một cái tháp, để nơi ở
trước bày biện đồ ăn thí cho chúng sanh. Rồi trước tháp đó lấy tay trái cầm cái
kích ngồi kiết già tụng chú, liền phát ra các thứ ánh sáng, người trì chú liền
bay lên hư không, được đại tự tại, Thiên chúng nghinh đón người trì pháp, dùng
các thứ hoa tốt rưới trên thân người ấy và đi nhiễu quanh, nếu các người khác
thấy cùng bay lên hư không, người trì pháp này được làm bậc đại vương, thường
được Ðại Tự Tại Thiên và các chư Thiên, Tiên nhơn, đều đến cung kính, sống lâu
một đại kiếp, nếu có người nào hiện tướng ác tâm đến liền sa đọa, các trời,
Long, Quỷ còn không dám ác niệm đối với người ấy, huống nữa kẻ phàm phu ư! Nếu
bỏ thân này được sanh về thế giới Tây phương Cực Lạc.
- Nếu muốn thành tựu Tử nhơn pháp (1), lấy một tử thi không bị
thương tích, chưa bị nát rã để vào trong một cái mâm, đem để trong đàn, nằm
ngày trên mặt đất, khiến mặt hướng lên, làm một cái hộp Khư Ðà Ra, dùng cây có
màu làm trụ, cột chân tay tử thi ấy lại, người trì chú ngồi trên ngực người ấy,
lấy vật báu nghiền thật nhỏ thành bột, lấy chút chút đó, mỗi mỗi tụng chú bỏ
vào trong miệng người chết kia, cho đến khi người chết mở miệng lè lưỡi mửa ra
hòn ngọc Như Ý Bảo Châu, cầm hòn ngọc Bảo Châu đã được đó, liền ở trong chốn
Minh Tiên làm bậc Chuyển Luân Vương tùy tâm mong muốn ước nguyện thì tất cả đồ
khí trượng liền tự nhiên hiện đến. Thân kia hiện ra ánh hào quang sáng chiếu
khắp bốn phương hơn một trăm dịch trạm, sống lâu tự tại. Nếu ý muốn làm vua của
các thế giới khác, liền được tự ý mà xả mạng, khi xả thân rồi được sanh về thế
giới Vô Cấu.
- Nếu muốn thành tựu pháp Tử nhơn thứ hai (2) như pháp trước
nói, lấy cây táo làm trụ, lấy sắt nghiền nhỏ, mỗi mỗi tụng chú, chút chút bỏ
vào trong miệng người chết, đến khi người chết lè lưỡi ra, liền cắt lưỡi ấy,
người đồng bạn thấy cũng được bay lên hư không chỗ sở nguyện liền được, sống
lâu một tiểu kiếp, khi bỏ thân này, được sanh làm vua một cõi Thiệm Bộ
Châu.
(1), (2) Pháp tử nhơn thứ nhất và thứ hai, ở Ấn Ðộ chứ ở xứ ta không hợp. Vì ở Ấn Ðộ có rừng
gọi là thi lâm (rừng bỏ xác chết). Những người giàu có đủ tiền mua củi để hỏa
táng, còn kẻ quá nghèo khổ chết rồi đem bỏ vào rừng này, nên các vị tu Mật Tông
lượm xác nào còn tốt đem về để tu luyện phép. Tập tục xứ ta khi chết phải được
chôn cất tử tế nên pháp này không thích hợp. Về việc dịch kinh phải y kinh dịch
đủ. Còn tu hành nên lựa pháp hợp thời cơ, hợp phong tục mà tu trì (Lời chú
thích của dịch giả).
- Nếu muốn thành tựu pháp Móc câu, lấy cỏ tranh làm một cái móc câu lớn bằng cánh tay, lấy năm vật của con trâu mà rửa đó, một ngày một đêm nhịn ăn, tay cầm móc câu ấy, cúng dường Ngài Kim Cang Bồ Tát, đốt một trăm chén đèn, lấy bơ làm dầu, trước tụng chú Ðại Phật Ðảnh: “TẤT ÐẠT ÐA BÁT ÐA RA ” (TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA) để hộ thân mình, sau tụng chú tức được thành tựu, giống như Luân pháp ở trước. Trải qua một ngày, hào quang chiếu sáng, nơi chỗ mình xây đắp đàn đó liền lấy cây táo làm bốn cái trụ, tụng chú bảy biến, mỗi mỗi trong góc trụ đều đóng đinh, liền được mười phương pháp giới. Vào canh hai, ngồi kiết già chí tâm cúng dường móc câu ấy, đảnh lễ chư Phật và Bồ Tát, cầm móc câu ấy chấp tay mà tụng chú, nếu có chúng sanh thọ khổ trong địa ngục thì liền hết khổ. Người trì chú này tức nghe được tiếng liền bay lên hư không, tay cầm móc câu ấy thì được làm vua tất cả Minh chúng. Hết thảy Thiên Long thấy người trì chú này liền đảnh lễ cúng dường, sống lâu một đại kiếp, khi bỏ thân này sanh về cõi Kim Cang địa, thấy được Kim Cang cảnh giới.
- Nếu muốn thành tựu tượng ấy, thì họa một tượng khi tượng kia phát ra lửa,
liền bay lên hư không, được làm bậc Minh Tiên.
- Nếu muốn thành tựu biệt pháp (pháp riêng) trước tụng chú này mười vạn biến, một ngày một đêm quyết cần
phải nhịn ăn, thiết bày đại lễ cúng dường, lấy cây Ất Ca làm lửa, lấy dầu mè
đen, bơ, phô ma, Mật chú 1.008 biến, chút chút bỏ vào trong lửa ấy, liền được
thành tựu, tâm mình cầu nguyện điều gì, liền được viên mãn.
- Nếu muốn hàng phục trời Ðại Tự Tại Thiên, trước cúng dường Trời Ðại Tự
Tại Thiên xong ngồi bên cạnh hướng Nam lấy lửa đốt dầu mè đen và bốn vật … tụng
chú cho đầy đủ một ngàn lẻ tám biến, tự mình vào phòng kín tắm rửa cho sạch sẽ,
xong tụng chú bảy biến vào trong nước tắm lại thân lúc ấy liền có tiếng phát
ra, ta không lấy gì làm sợ sệt, trời Ðại Tự Tại Thiên liền hiện thân, nguyện ấy
đều được.
- Nếu muốn thành tựu Na La Diên và Phạm Thiên Vương v.v… làm như pháp trước
liền được thành tựu, trước tự hộ thân. Nếu kêu Dược Xoa nữ, mẹ và chị,
em, vợ, lấy hoa Vô Ưu tụng niệm tên kia, một ngày ba thời chú vào hoa ấy 108
biến, bỏ vào trong lửa thiêu, nội trong bảy ngày tức có thể liền đến, nguyện gì
đều được, nếu mẹ và chị, em vợ, nội trong bảy ngày mà không đến, thì các Dược
Xoa kia đầu liền bị bể, phải hàng phục.
- Nếu muốn kêu các Rồng, thì lấy Long hoa thiêu như pháp trước.
- Nếu muốn kêu gọi quỷ Dược Xoa, nội trong ba tháng lấy phô ma, cơm ngày ba
thời, mỗi thời tụng chú một trăm lẻ tám biến cho đến khi ngày hết tháng, một
ngày một đêm nhịn ăn cúng dường tượng Phật, các Dược Xoa thảy cần cho họ
ăn uống, dùng cây Phạt Tra làm củi, lấy phô ma, bơ, mật, cơm bỏ vào trong đó mà
thiêu, tùy nơi ý niệm mình kêu gọi Dược Xoa, thì họ liền đến, lấy bơ, phô ma,
mật, cơm tụng chú một ngàn lẻ tám biến , tụng một biến thiêu món ăn ấy một chút
được Tỳ Sa Môn và các Dược Xoa chúng … cấp tốc liền đến chỗ đó, lấy hoa của cây
Hắc Ca nghinh đón họ, lúc ấy các Dược Xoa nói rằng: Gọi chúng tôi làm việc gì
đây ư? Mình liền nói rằng: Mỗi ngày một Dược Xoa phải giữ cửa ngõ cho tôi, sai
khiến làm việc, liền làm đó. Nếu cần việc gì, liền phải đem đến, nếu bảo họ
khiêng mình, liền được họ khiêng đó, nếu muốn thuốc trường sanh tức họ cho đó.
- Nếu muốn hàng phục thần Kim Cang, trước phải tụng chú bốn ngàn ba trăm
mười hai vạn biến, tháng mười hai ngày mùng một cho đến tháng giêng ngày mười
lăm, phải cúng dường chư Phật và thiết lễ cúng dường hai mươi mốt lần trai
Tăng, vì đó phát lời nguyện công đức cúng dường này, hồi hướng đến Ngài Kim
Cang, ban đêm vào canh hai ngồi kiết già lấy lửa thiêu An tất hương tụng chú,
lấy hương viên lớn bằng hột ngô đồng, khi ý niệm tụng chú mong thấy Ngài Kim
Cang thần, tụng chú cho đến canh ba, liền có sấm nổ, đất động, trời mưa các thứ
hoa vi diệu, Ngài Kim Cang liền đến và tất cả Bồ Tát, Thiên Long, Bát Bộ v.v…
cùng đến vi nhiễu chung quanh, người trì chú lấy hương thơm nấu nước cúng các
thứ hoa ra nghinh đón cung kính, lễ bái. Ngài Kim Cang liền dạy rằng: Ông nay
cầu nguyện gì tùy theo đó mà xin, sống lâu một kiếp, nếu bỏ thân này, liền sanh
về xứ của Ngài Kim Cang.
- Nếu muốn thành tựu các pháp Minh Tiên thì làm pháp của Ngài Kim Cang,
liền thành tựu.
- Nếu muốn thành tựu pháp Phật chú và phương pháp Quán Thế Âm chú, phương
pháp Phạm Thiên chú, phương pháp Ðại Tự Tại Thiên Chú cùng tại thế, xuất thế
đều làm pháp này.
- Nếu trì các chú khác không thành tựu, liền lấy chú này cộng chung với chú
đó, tụng trong bảy ngày, liền được thành tựu. Nếu không thành và không hiệu
nghiệm, thì các Thần chú của chú liền phải diệt vong.
- Nếu Ðại Tự Tại Thiên và các chư Thiên trước nội trong bảy ngày tụng chú,
không hiện thân liền khiến bể đầu.
- Nếu ngày nhật nguyệt thực, chế các thứ thuốc thang, thuốc hoàn v.v… Trước
phải chuẩn bị chờ ngày ấy tụng chú cho đến nhật nguyệt thực sáng lên, các pháp
thuốc kia mau liền được thành tựu.
- Nếu có người phụ nữ cầu con trai hay con gái, trước phải tụng chú một
trăm vạn biến, thiêu trầm thủy hương cúng dường, tháng mười hai ngày mùng một
bắt đầu tụng chú cho đến ngày rằm, ở trong đạo tràng cúng dường, thiết lễ trai
Tăng hai mươi mốt ngọ, người phụ nữ kia ngày ba thời thiêu hương tụng chú. Tâm
niệm phát nguyện cầu con trai hay con gái, vào ngày rằm trong canh hai lấy dầu
mè đen trộn với bơ, tụng chú một biến lấy một chút thiêu, cho mãn một trăm
biến, vào canh tư liền thấy cảnh giới hoặc hình tướng Bồ Tát v.v… liền tự biết
đó. Nếu người phụ nữ kia trong tâm niệm, liền biết sở nguyện mình thu hoạch
được, thiêu hương cúng dường trước tượng, trì tụng chú liền được thành tựu.
- Nếu cầu ẩn hình, lấy thuốc Hùng hoàn, một lượng nhỏ hay nửa lượng, lấy
sữa người hòa lại, viên thành năm hoàn, lấy trầm thủy hương làm một cái hộp nhỏ
bỏ đầy thuốc ấy vào, lấy một hoàn tụng chú một ngàn lẻ tám biến, lấy năm trái
Bạch giới tử (trái cải trắng) tụng chú một ngàn lẻ tám biến, mỗi mỗi tụng chú
cho vào trong hộp ấy, chờ đền ngày nhật nguyệt thực tụng chú. Trong hộp nhỏ kia
nếu có phát ra tiếng thì tất cả chúng sanh thấy người trì chú này thảy đều vui
mừng các việc đều được. Nếu phát ra khói, người trì chú liền được ẩn hình, đi
đến nơi nào đều làm chủ, sống lâu một tiểu kiếp. Nếu phát ra ánh lửa sáng,
người trì chú thân liền được đoan chánh, giống như Thiên thần, sống lâu một
tiểu kiếp, trăm báu kho tàng thảy đều tự hiện đến.
- Nếu muốn thành tựu pháp Ngưu huỳnh, làm như pháp Hùng hoàn ở trước.
- Nếu muốn thành tựu thuốc đau mắt, lấy Thạch An thiện na và hoa sen xanh
cùng thanh mộc hương, mỗi thứ một đồng tiền, lấy thuốc đó bỏ vào cái thanh la
bằng đồng, đem sao khử thổ, chờ đến ngày nhật nguyệt thực, ngày đêm tụng chú
cho đến khi khói phát ra, lấy thuốc này để trong mắt, người trì chú liền được
ẩn hình và làm chủ các vị ẩn hình khác.
- Nếu muốn thành tựu đao pháp, lấy một cái đao mới, không bị tỳ vết nào,
ngày 23 hoặc ngày 29 cúng dường tượng Phật, bày lễ thí thực cho chúng sanh, thì
hộ được thân mình, tay trái cầm đao ấy tụng chú, cho đến đao kia phát ra tiếng
liền bay lên hư không, sở nguyện được tùy ý. Lại nữa nếu lửa phát ra, kẻ đồng
bạn thấy được ánh lửa ấy cũng được bay lên hư không, làm chủ những người bay
lên hư không.
- Nếu muốn thành tựu Kim Cang xử, lấy thép tốt làm thành hình thoi,
dài mười sáu lóng tay, đập thành ba cạnh, trên dưới làm ba đầu, mài cây tử đàn
thoa lên, tháng mười hai ngày mùng một cúng dường tượng mỗi ngày thiết lễ cúng
dường bốn vị Tăng và mỗi ngày tăng lên thêm một vị, tự mình trì chú cho đến
ngày mười ba. Cúng dường chư Tăng xong rồi liền phải nhịn ăn, cho tới ngày mười
lăm đến trước tháp Xá lợi cúng dường đồ tượng, rồi lấy bơ làm 108 chén đèn,
dùng cỏ tranh để ngồi, hai tay nắm xử ấy tụng chú mà chú nguyện vào đó, bảo xử
kia liền phát ra lửa, người trì chú được thăng lên cảnh Tiên, các đồng bạn thấy
cũng được bay lên hư không, làm chủ bậc Minh Tiên thần lực giống như Ngài Kim
Cang, sống lâu một đại kiếp, sau khi mạng chung được sanh về cõi của Ngài Kim
Cang Bồ Tát. Lại nữa! Nếu muốn thành tựu Pháp luân đao khí tượng, cứ y như pháp
trước mà làm tức được thành tựu.
- Nếu muốn trừ các ác trong nhà, trước làm hỏa lò bằng đất, bốn phía họa
hoa sen, trong hỏa lò lấy cây dâu làm củi vào phô ma cùng bơ, mật, ngày ba
thời, tụng chú 1008 biến, đến nội trong ba ngày tức được thành tựu.
- Nếu muốn bảo hộ một thành hay một thôn, nội trong bảy ngày thiêu cây Xa
Di Ca và bơ, phô ma, mật, tức được thành tựu.
- Nếu muốn cầu mưa, lấy cây Ô đồ mạc la (cây chi tử hay cây dành
dành) và phô ma, bơ, mật thiêu đốt nội
trong bảy ngày tức được thành tựu.
- Nếu sở cầu bảo hộ một nước, như trước nói, thì lấy cây dâu thiêu đốt.
- Nếu muốn cầu sống lâu, thì vào tháng mười hai ngày mùng một đến ngày mười
lăm, đi khất thực những món ăn tinh khiết mà tụng chú, tóm lại ba mươi ngày là
mãn biến số, đến ngày hết tháng, trước hai ngày ấy phải nhịn ăn, lấy ba mươi
lít sữa của con bò đen tụng chú cho đủ được 108 biến, lấy hương hoa cúng dường
nơi Phật, lấy sữa đó tự mình uống, tức được sống lâu. Nếu nội trong mười ngày
lấy bơ, phô ma, mật thiêu đốt và cỏ chỉ cột lại thiêu, tức được sống lâu.
- Nếu cầu hàng phục kẻ nghịch tặc, lấy Ðộc đầu (đầu
con vượn) và Bà la hầu, chú 1008 biến, khiến
cho kẻ nghịch tặc nghe tiếng của Bà la hầu và Ðộc đầu, tức liền tự trói. Nếu
lấy tất cả hột cỏ chút chút, bỏ đầy trong bình sành mới, đổ nước vào hòa, tụng
chú 108 biến, lấy hột cỏ nẩy mầm và nước đó mà tắm, trừ tất cả các ác, không
thể hại được.
- Nếu có người ăn nhằm thuốc độc, lấy lông đuôi của con công, tụng chú mười
vạn biến, cấm được độc ấy và các ác bịnh đều được trừ lành.
- Nếu trời làm tất cả bịnh nóng, lấy dây kết chú 108 biến, mỗi biến
một gút, đeo trên cổ người bịnh, tất cả bịnh nóng đều được trừ lành.
- Nếu lấy cây Khư đà la (cây gừng) làm lửa, lấy phô ma, bơ, mật hòa lại bỏ vào trong lửa đó
thiêu, chú 108 biến, mỗi biến thiêu một chút, chút chút mà thiêu đốt, tức được
của phục tàng (của báu giấu kín trong lòng đất).
- Nếu lấy cây Tử đàn hương khắc hoa sen cho đủ mười vạn cái, người đến bên
mé sông lớn Hồng hà, mỗi mỗi chú đó, phóng vào trong nước, hết đàn hoa rồi, y
số hoa đàn, tức được kho vàng.
- Nếu lấy cây Tỳ lê bà (giống như cây Minh tra
trái ăn được) đem đốt y như trước ba vị, mỗi mỗi mà
chú đó, cho mãn 1008 biến liền được y như trước, vô tận kho tàng.
- Nếu lấy cây trầm hương, y như trước, ba vị thiêu đốt nội trong hai mươi
mốt ngày, ngày ngày ba thời, mỗi thời tụng chú 1008 biến tất cả Thiên, Long,
Thần đều đến làm sứ giả.
- Nếu lấy gạo lúa ngon và bơ, phô ma, mật bỏ vào trong lửa tụng chú, cho
mãn 1008 biến, liền được trăm món vô tận đồ ăn ngon.
- Nếu lấy An tất hương, viên như hột ngô đồng, cùng ba vị hòa lại, mỗi mỗi
tụng chú thiêu đốt cho đủ 1008 biến, được tất cả Dược xoa đều đến làm sứ giả.
- Nếu lấy hoa A du ca hoặc hoa Vong ưu hay hoa Vô chí và ba vị tụng chú
1008 biến, mỗi biến thiêu đốt, tất cả Dược xoa nữ đều đến làm sứ giả.
- Nếu thiêu Long hoa và ba vị đó, thì tất cả Rồng đều đến làm sứ giả.
- Nếu thiêu trầm hương và ba vị đó, y như trước tụng chú, tất cả Kim Cang
đến làm sứ giả.
- Nếu thiêu quả Mạt đát na và ba vị đó, y như pháp trước, tất cả Minh Tiên
đến làm sứ giả.
- Nếu lấy cây Trầm hương làm lửa thiêu tô hạp hương, tụng chú 108 biến, tất
cả Kiền đạt phạ (Càn thát bà) đến làm sứ giả.
- Nếu thiêu Huân lục hương, tất cả Ngạ quỷ đến làm sứ giả.
- Nếu lấy thuốc Thi Lợi Phược Ðắc Già, hòa với trầm thủy hương thiêu đốt,
tất cả Kiên nại lạc (Khẩn Na La) đến làm sứ giả.
- Nếu thiêu Bạch giao hương, tụng chú 108 biến, thì tất cả Tỳ na dạ ca, đến
làm sứ giả.
- Nếu thiêu Bạch giới tử (hột cải trắng) và dầu của Bạch giới tử, tụng chú 1008 biến xong rồi, quốc
vương vui mừng. Nếu nội trong bảy ngày, ngày ba thời làm phép tức thành tựu.
- Nếu đối trước một ngày tụng chú 10 vạn biến, tất cả ác chướng thảy đều
tiêu diệt.
- Nếu tụng một biến thì hộ được thân mình, nếu tụng hai biến, bằng hữu, tài
vật đều được ủng hộ.
- Nếu muốn thành tựu pháp Liên hoa (hoa sen) lấy cây Tử đàn hương làm một hoa sen, ba ngày nhịn ăn, tay
trái cầm hoa sen ấy, ngồi trước tượng, tụng chú cho đến khi lửa phát ra, lúc
bấy giờ đồng bạn bay lên hư không làm bậc Chuyển Luân Vương của Minh Tiên
chúng, khi bỏ thân mạng được sanh về nước Tây phương Cực Lạc.
- Nếu lấy đất Ma La Mạc Già (đất nơi hang chuột lỗ) và cát trộn lại, làm cái Kim Cang xử (chày
Kim Cang) dài mười hai lóng tay, tay cầm Kim
Cang xử ấy, nhà nhà xin ăn (khất thực), nhất định không được cùng người nói chuyện, tụng chú mười
vạn biến, ở trên đầu xử làm một cái lỗ, bỏ hột cải trắng vào, chờ đến ngày nhật
nguyệt thực, đến trước tượng tụng chú khiến cho hột cải trong xử kia phát ra
tiếng, sở cầu nguyện gì đều được thành tựu. Nếu lấy cái xử đó dộng núi, thì núi
liền sụp đổ, phàm ra làm việc gì đều được toại ý. Nếu đem cái xử ấy vào trong
biển thì nước biển cũng tùy ý. Nếu cầm cái xử đó tụng trì chú pháp, tất cả Tỳ
Na Dạ Ca không dám làm chướng ngại.
- Nếu vào sông sâu biển lớn, đến bên mé sông hay biển ấy, lấy mười vạn hoa
sen, mỗi chú quăng mỗi hoa sen vào trong nước, liền được diệu kiết tường, Thiên
nữ xuất hiện, các sở nguyện đều được. Nếu lấy ba mươi vạn cành sen tụng chú y
như trước, phóng vào trong nước, cầu các việc lớn đều được tùy ý. Nếu lấy năm
mươi vạn cành sen, tụng chú như trước, phóng vào trong nước đó, các đại nguyện
rất lớn cũng được như ý.
- Nếu ngày mùng một của tháng, lấy hoa Xà đề thơm (hoa
chi tử thơm) tụng chú 108 biến, mỗi mỗi rưới khắp
phía trước chân tượng, mỗi ngày ba thời, cho đến ngày rằm làm pháp này, phía
trên chân tượng hiện ra hào quang sáng, nhập vào thân người trì chú, người ấy
liền được ẩn hình, các đồng bạn thấy đều bay lên hư không, được làm Chuyển Luân
Vương cõi Minh Tiên chúng, sống lâu một kiếp.
- Nếu ngồi trên bờ biển, lấy cây Long hoa làm củi đốt lửa, hướng mặt về
Phương Tây, cầm cây Long hoa, tụng chú mười vạn biến thiêu vào trong lửa, nước
biển liền nổi sóng, cuồn cuộn rất mạnh, lúc bấy giờ không lấy gì lo sợ, nên
chuyên tâm chí thành tụng chú, ở trong nước biển hiện ra Chơn Bà la môn, các sở
cầu đều được, sai sử đều làm.
- Nếu ở trên mặt đất vẽ một hoa sen ngàn cành, ngồi ở trên đó tụng chú mười
vạn biến, thì đất liền nứt ra, có thần xuất hiện cùng với người trì chú đồng
làm bạn v.v… liền bay lên hư không, ở tiên cảnh Minh Tiên chúng làm Ðại chủ,
sống lâu một kiếp.
- Nếu tháng mười hai ngày mùng một đến ngày rằm lấy hoa Xà đề, mỗi
mỗi tụng chú, rải trên đảnh Ðức Phật, cho mãn mười vạn biến, đảnh liền phát ra
hào quang, chiếu trên thân người trì chú, liền được năm món thần thông. Nếu hoa
kia tụng chú mãn một trăm vạn biến, các sở nguyện đều được.
- Nếu lấy đất cong hình con lươn, làm một con sư tử, lấy ngưu huỳnh thoa
đó, để con sư tử trong đàn cung kính cúng dường, tụng chú cho đến khi con sư tử
kia cử động liền thành tựu, các sở nguyện đều được. Nếu cỡi con sư tử kia chỗ
nguyện muốn sanh về xứ nào, liền được sanh về chỗ đó, mạng sống đồng với Phạm
Thiên. Nếu là con voi hay con trâu nước, y như pháp trước thì cũng vậy, chúng
phát ra tiếng, chư Thiên đều đến, cột lấy cũng liền được, chỗ sai sử đều làm.
- Thần chú Chuyển Luân Vương này, cầu việc tu trì gì, sở nguyện đều đuợc
thành tựu, chỗ cần vật gì, cũng nhất định y như tâm mình nguyện, đem tâm thanh
tịnh thành tín làm các pháp này, quyết định thành tựu.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói pháp này rồi, lại nói nữa rằng: Nếu Ta nói rộng
ra thì Thần chú này rất oai lực thành tựu tất cả các pháp, cùng kiếp không thể
nói hết, các ông phải biết, đây chỉ tóm lược mà nói.
Lúc bấy giờ trong hội có vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn Bồ Tát, đại Bồ
Tát, Thiên Long, Bát Bộ, hết thảy các vị Chuyển Luân Vương v.v… hết lòng vui
mừng, thảy đều nói lên rằng:
- Lành thay! Lành thay! Ðức Thích Ca Như Lai hay nói việc khó nghĩ bàn này,
tuy nhiên tất cả chúng con xin thệ rằng: Sẽ ủng hộ người trì chú này, nếu thấy
có người và kẻ phi nhơn nào, thọ trì, đọc tụng, biên chép, cung kính cúng
dường, yêu mến tìm cầu ấy, thường được ủng hộ và bảo vệ, khiến cho kẻ ấy không
có tai hoạn.
Nếu trong quốc gia nào thấy có Thần chú này, tất cả chúng con sẽ cung kính
những người trong quốc gia ấy như Phật không khác. Nhờ oai lực Thần chú này mà
phòng ngự được quốc gia, khiến các kẻ quỷ thần, hung tặc mãnh tướng ác quỷ, bão
lụt, nước lửa không thể làm xâm tổn, trăm họ giàu mạnh, cõi nước an ninh, tiền
tài, lúa gạo giàu có, không còn có các nạn đói khát, ôn dịch những việc không
lành cũng đều thối tán.
Lúc bấy giờ đức Như Lai khen rằng: Lành thay! Lành thay! Các ông như thật
đem hết khả năng ủng hộ và bảo vệ người trì chú này.
Phật nói kinh này rồi, các đại Bồ Tát, Thiên Long, Bát Bộ, thảy đều vui
mừng, tin giữ thọ trì.
KINH ÐẠI ÐÀ RA NI MẠT PHÁP TRUNG
NHẤT TỰ TÂM CHÚ
II
XỈ LÂM
( Trì tụng UM! XỈ LÂM! HÙM! đến KHI tương tục không gián đoạn, THÌ tấc cả vọng niệm không sanh khởi sẽ thấy LINH NGHIỆM hay QUÁN 1 chữ PHẠN XỈ LÂM hiện ra rõ ràng sẽ thấy LINH NGHIỆM )
KINH ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG KINH TRUNG
VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BỔN
NHẤT TỰ ÐÀ RA NI
Ðời
Ðường, Bắc Ấn Ðộ nước Ca Thấp Di La
Ngài
Tam Tạng Bảo Tư Duy dịch Phạn ra Hán.
Sa Môn Thích
Viên Ðức dịch ra Việt văn.
Tôi nghe như vầy: Một thời Ðức Phật ở tại cõi Trời Tịnh Cư, nơi đạo tràng
Ðại Bảo Trang Nghiêm, có các đại Bồ Tát cùng chư Thiên đại chúng đều đến nhóm
hội.
Bấy giờ đức Thế Tôn mở lòng đại từ đại bi, ở trong hội ấy nói khắp tất cả
chư Thiên, đại chúng rằng:
Các ngươi lắng nghe! Ngài Văn Thù Sư Lợi đồng tử có Pháp luân chú, vì muốn
cứu độ cho chúng sanh, hết thảy Như Lai đều có tâm bí mật khai thị hiển thuyết.
Nếu có người trì tụng ta sẽ thọ ký cho người ấy, lúc trì tất cả các chú khác
mới mau hiệu nghiệm viên mãn, tất cả việc làm đều được thành tựu không gì hơn.
Các ngươi phải biết Ðà Ra Ni này là Ðại Thần chú Vương, trong các chú có đại
thần lực.
- Nếu có người Thiện nam, Tín nữ nào hay thọ trì, thì Ngài Văn Thù Sư Lợi
Ðồng Tử Bồ Tát sẽ đến ủng hộ, hoặc lúc tỉnh giấc, hoặc ở trong mộng, Ngài hiện
thân tướng và hết thảy các điềm lành, có công năng khiến cho chúng sanh đều vui
mừng.
Các Thiện nam tử! Chú Vương này còn thu nhiếp được Ngài Văn Thù Sư
Lợi Ðồng Tử Bồ Tát, huống nữa các Bồ Tát khác, ở thế gian và xuất thế gian,
cùng tất cả Hiền Thánh v.v…
Lại nữa, Thiện nam tử! Thần chú này có các công năng tiêu trừ tất cả tai
chướng, tất cả mộng ác, tất cả oán địch, tất cả tội ngũ nghịch, tội tứ trọng,
thập ác và các nghiệp tội nặng, tất cả tà ác, các chú pháp không lành và có
công năng diệt trừ hay thành biện tất cả việc lành, được đại tinh tấn. Nên biết
các chú tại thế và xuất thế thì chú này thù thắng hơn hết, là tâm của chư
Phật, hay khiến tất cả sở nguyện đều được viên mãn.
- Nếu có chỉ năm màu, kết Thần chú này thành dây, đeo nơi cổ sẽ ủng hộ được
thân mình, diệt trừ tai chướng, khiến các nguyện đều được viên mãn, không gì
sánh bằng, liền nói Thần chú rằng:
“ÚM XỈ LÂM”
Này các Phật tử! Chú này có công năng tiêu diệt tất cả tà ác, vọng lượng và
các loài quỷ. Là Pháp kiết tường (an lành) của hết thảy chư Phật, có công năng thành tựu tất cả Thần
chú. Người tụng chú này hay khiến cho chúng sanh phát lòng đại từ, hay khiến cho
chúng sanh phát lòng đại bi, hết thảy chướng ngại đều được tiêu diệt, chỗ mong
cầu ước nguyện đều được đầy đủ, dù khi chưa làm phép tắc cũng được tự ý thành
biện các việc. Nếu phát lòng Vô thượng đại Bồ đề, tụng chú này một biến
có năng lực gia hộ tự thân, nếu tụng hai biến có năng lực gia hộ đồng bạn, nếu
tụng ba biến có năng lực gia hộ mọi người trong nhà, nếu tụng bốn biến có năng
lực gia hộ mọi người trong một thành, nếu tụng năm biến có năng lực gia hộ mọi
người trong gia hộ mọi người trong một nước, nếu tụng sáu biến có năng lực gia
hộ mọi người trong một thiên hạ, nếu tụng bảy biến có năng lực gia hộ mọi người
trong bốn thiên hạ. Nếu mỗi sáng tụng chú này một biến trong nước rửa mặt thì
hay khiến người thấy sanh lòng vui mừng, chú nơi hương thơm, thoa nơi áo mặc
cũng khiến mọi người thấy đều sanh lòng vui mừng.
- Nếu bị đau răng, chú trong cây Lan mà nhâm nhai đó, thì răng đau liền
bớt.
- Nếu có người nữ bị sản nạn (nạn sanh đẻ) lấy rễ cây A Tra Lô Sa Ca hoặc rễ cây Lan Già Lợi Ca (cây
Ngưu Tất) chú vào đó bảy biến, lượt trùng lấy
nước sạch, hòa vào trong rễ cây ấy, thoa nơi sản nữ hay nơi rún, ấu nhi liền
sinh ra dễ dàng.
- Hoặc có người nam bị trúng tên, đầu sắt nhọn của mũi tên đâm vào gân
xương, nhổ ra không được, lấy bơ mười năm, ba lượng, tụng chú 108 biến, thoa
nơi chỗ bị tên độc và ăn bơ đó, mũi tên có sắt độc kia liền ra.
- Nếu người đàn bà năm năm cho đến hai mươi năm, ba mươi năm mà chẳng có
con trai hay con gái, hoặc tự có bịnh, hoặc chồng của người đàn bà ấy bị bịnh
quỷ mị hay các thứ bịnh khác, hoặc bị nhằm thuốc độc, lấy bơ để lâu trên mười
năm, năm lượng, lấy lông của đuôi con công, một lượng, bỏ vào trong bơ ấy, tụng
chú 21 biến, đem nghiền thật nhỏ, rồi bỏ vào chưng nấu chín, lấy một lượng
đường phèn và ba trái A Lê Lặc lớn, bỏ hột lấy vỏ, hòa chung với nhau lại tụng
chú 108 biến, thường mỗi buổi sáng bụng đói uống thuốc ấy vào, uống bảy ngày
như vậy, liền có con trai hay con gái.
- Nếu đau đầu, lấy lông cánh của con chim, tụng chú này bảy biến, phết chỗ
đau nơi ấy tức bịnh liền lành.
- Nếu bị bịnh rét, một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, hoặc bị rét kinh
niên, lấy thuần sữa tốt, nấu chung với cháo, trộn vào một lượng bơ, tụng chú
108 biến cho người bị bịnh ăn, tức bịnh liền dứt.
Này các Thiên nam tử! Ðây chỉ tóm lược mà nói, nếu muốn bào chế các thứ
thuốc để uống thì trước cần phải chí tâm tụng chú 21 biến, sẽ mau được như
nguyện.
Lại nữa! Các Thiện nam tử! Nếu có tất cả chúng sanh, bị quỉ Phi đầu bắt giữ
thì mình lấy tay thoa nơi mặt họ, tụng chú 108 biến, mình làm tướng oai nộ, liền
lấy tay trái kiết ấn Bổn sanh (ngón tay cái co vào
trong lòng bàn tay, sau dùng bốn ngón kia nắm chặt ngón cái lại thành một hình
cầm cú) liền tự hét nộ mắt chăm nhìn và tụng
chú mà xem bịnh thì bịnh liền lành.
- Nếu người bị các loài quỉ hành bịnh, mình tụng chú vào trong tay phải 108
biến, thiêu An tất hương xông nơi tay, tay trái kiết ấn Bổn sanh (ấn
như trên) tay phải thoa nơi đầu của người bị
quỉ hành bịnh, bịnh liền dứt.
- Nếu có oán địch cùng các ác mộng và các việc sợ hãi, làm thân tâm bất an,
lấy chỉ bảy màu hay năm màu, kết Thần chú này thành dây hoặc thành hình hoa
sen, hoặc thành hình bánh xe Pháp luân, hoặc thành hình Kim Cang xử, tụng chú
108 biến, thiêu An tất hương, xông dây đó cho đến bảy ngày, đeo vào nơi cổ, tất
cả tai chướng đều được tiêu tán. Hoặc lấy ngưu huỳnh nghiền nhỏ làm mực, viết
trên giấy sạch, hoặc là lụa trắng, vẽ hình đáng sợ nơi bốn bên, hãy viết chữ
“ÚM XỈ LÂM” chung quanh, hoặc vẽ hình hoa sen, hoặc hình bánh xe Pháp
luân, hoặc chữ vạn, hình ngư ốc, hình Kim Cang móc câu, bình Cam lồ báu, vẽ
chung quanh ấy, tụng chú bảy biến thì chỗ sợ hãi liền tiêu trừ.
- Này các Thiện nam tử! Nếu muốn đi qua các chỗ hiểm nạn sư tử, hổ lang,
độc xà, oán tặc tất cả chỗ nạn ấy, nên cần dốc hết thân tâm cho thanh tịnh,
không được gần gũi người nữ, không được ăn ngũ tân (rượu,
thịt, hành, hẹ, nén, tỏi …) đối với chúng sanh,
phát tâm đại từ bi, nhất tâm tụng chú 49 biến thì các oán ác tự nhiên thối tán,
dầu có gặp đi nữa cũng đều sanh tâm vui mừng.
Này các Thiện nam tử! Thần chú này đối với tất cả chúng sanh, hoặc ở một
kiếp, hoặc vô lượng kiếp, cho đến danh tự không thể nghe được, huống nữa chuyên
tâm tụng niệm, giả sử của bảy báu như: voi, ngựa đầy dẫy cõi Diêm Phù Ðề này,
cũng là pháp hoại diệt của thế gian.
Ðà Ra Ni Thần chú này, khiến chúng sanh hiện tại và tương lai, thường được
an ổn, hay làm quyến thuộc với các Như Lai và các chúng đại Bồ Tát. Nếu vì bản
thân mình hay bản thân người khác thì các sở nguyện cũng đều được như ý. Vậy
cho nên phải ân cần khao khát, rất khó gặp, không được khinh mạn, hoặc sanh tâm
nghi ngờ.
KINH ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG KINH TRUNG
VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BỔN NHẤT TỰ ÐÀ RA NI
III
XỈ LẠC HÊ DIÊM
MẠN THÙ THẤT LỢI BỒ TÁT CHÚ TẠNG TRUNG
NHẤT TỰ CHÚ VƯƠNG KINH
Ðời
Ðường, Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nghĩa
Tịnh phụng chiếu dịch Phạn ra Hán.
Sa Môn
Thích Viên Ðức dịch thành Việt văn.
Bấy giờ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong cõi Trời Tịnh cư, giữa chúng chư
Thiên, Ngài ngồi kiết già chánh niệm, khắp xem đại chúng mà dạy rằng: Này các
vị chư Thiên, phải chí tâm lắng nghe, Ngài Mạn Thù Thất Lợi Ðồng Tử có công
hạnh nhiệm mầu, gọi là đàn tràng tác pháp (làm phép) Thần chú trị lành các bịnh
và hộ thân mình, là tâm chú tối thượng bí mật thứ nhất, tất cả Như Lai đều nói
và khen ngợi tán dương, đây là đại chú vương. Nếu có thiện nam tín nữ nào
thường hay tụng Thần chú này thì là thọ trì tất cả Thần chú vậy.
Này các chư Thiên! Ðây là đại chú vương không thể trái được, còn sai sử
Ngài Mạn Thù Thất Lợi Ðồng Tử đại Bồ Tát. Thần chú này cũng có công năng tùy
theo tâm tự tại dắt dẫn, thu nhiếp cho những kẻ tương lai, khiến sử hiện tiền
làm các công việc, huống lại các Bồ Tát khác ở trong thế gian và xuất thế gian
đã có Thần chú. Tất cả chướng ngại đều được tiêu trừ, có đại dũng mãnh và có
đại oai lực, thần nghiệm thứ nhất trong các Thần chú, trong một chữ rất tôn
quí, một chữ của chú này thảy đều có công năng thành tựu tất cả các sự nghiệp,
hoàn toàn viên mãn tất cả chú thuật, không thể hủy hoại được, là tâm chú của
hết thảy chư Phật, các sở cầu đều được viên mãn.
Này các chư vị Thiên chúng! Tất cả phải chí tâm lắng nghe, không thể nghĩ
bàn đại oai lực của Thần chú này, liền nói Thần chú rằng:
“ÚM, XỈ LẠC HÊ DIÊM”
Này các vị chư Thiên chúng! Ðây là chú vương hơn tất cả các Thần chú bí mật
khác, hết thảy hữu tình không dám trái lịnh, tất cả quỉ thần không dám gần gũi,
là việc kiết tường của chư Phật, trong tất cả Thần chú thì Thần chú này cao
thượng tùy ý thành tựu thứ nhất, làm đại tôn thắng trong tất cả thế gian. Nếu
có người cầu tiền tài cho được đại tự tại thì sẽ khiến cho hiền lành, đối với
các loài hàm thức thì làm cho tâm tánh họ trở nên bi mẫn, có kẻ oán nghịch ấy
thảy đều thuận theo.
Tóm lại mà nói, bất cứ việc gì cũng được thành tựu, dẫu không tác pháp,
nhập đàn tràng v.v… chỉ thẳng vào mà trì tụng, khi tay sờ chạm những chỗ đau
bịnh liền được tùy ý. Chú trong áo mặc người thấy đều ưa mến, vui mừng.
- Nếu đau răng, chú vào cây rau (loại rau trị bịnh đau răng) nhâm nhai, thì
bịnh nhức răng liền lành.
- Nếu bị đau mắt, lấy Tiên Ðà La Diêm (muối lâu năm) nghiền thật nhỏ, chú
bảy biến, nhỏ vào trong mắt, bịnh đau mắt liền dứt.
- Nếu bị đau lỗ tai, lấy phân của voi hay của ngựa ở trong vườn, lâu ngày
thành nấm, lấy nấm đó, lấy dầu Cư Ðằng (dây mây, củ mây, trái mây, lá mây, ép
thành dầu) lấy ít muối lâu năm, xong lấy mỗi thứ một chút, chú nguyện mỗi thứ
bảy biến, bỏ chung vào nghiền thật nhỏ, cho vào ít nước nóng, khuấy thật đều,
nhỏ vào tai, bịnh tức liền lành.
- Nếu có người nữ khi sắp sanh sản, bị thai khuấy động, trong bụng quặn
đau, thật là khó sanh, lấy rễ cây A Tra Lưu Lệ hoặc rễ cây Ngưu Tất, lấy nước
lượt trùng, đổ vào rễ cây ấy, đâm nát, chú bảy biến, thoa nơi dưới rún liền
sanh dễ dàng.
- Hoặc người bị tên bắn, mũi sắt nhọn của tên đâm vào thân, lấy ra không
được, dùng tía tô hay bơ, chú 108 biến, cho người đó uống, mũi sắt nhọn của tên
liền lấy ra dễ dàng.
- Nếu bị trúng thực, ăn không tiêu trong bụng quặn đau, trên thổ dưới tả, nóng
nảy sợ chết, có thể lấy muối đen hoặc muối lâu năm, hay các loại muối nghiền
thật nhỏ, chú bảy biến cho vào chút nước nóng, khiến người kia uống bịnh liền
dứt.
Lại nữa, bịnh kiết lỵ lâu ngày chẳng hết, lấy rễ cây Quật Dữu (cây quít)
hoặc rễ của cây Minh Tra (cây Tra trái ăn ăn được, mọc chỗ vắng) đâm thật nhỏ,
chú bảy biến, hòa vào ít nước, uống vào thì bịnh liền lành.
- Nếu người đàn bà không có phương pháp gì để sanh con, muốn cầu con trai
hay con gái, nên lấy rễ cây A Thuyết Kiền Ðà, lấy bơ chưng chín, đem giã thật
nhỏ hòa chung với Ngưu Huỳnh và sữa, chú vào ấy 25 biến, chờ lúc người đàn bà
kia thân thanh tịnh, cho uống thuốc này, chồng cũng như vợ không được ngoại
tình, trong thời gian không lâu tức liền có thai.
- Lại nữa! Nếu người đàn bà không có con kế tự, trải qua ba năm, năm năm
hoặc nhiều năm, hay bị thư chú, hay bị nguyên do trù yếm, hoặc nhơn các bịnh,
hoặc bị người làm não loạn, hoặc bị thuốc độc, hoặc gặp ác duyên, cho nên không
có con kế tự, lấy một ít lông đuôi của con công, bỏ vào ít bơ, nấu sôi một trăm
độ, đem nghiền thật nhỏ bỏ vào ít đường phèn, độ bằng quả táo, chú 27 biến,
khiến cho uống hết, sau bảy ngày, trong mỗi ngày thường lấy ít đường phèn hòa
chung với sữa, mỗi thứ chú bảy biến, người đàn bà kia thân thanh tịnh, các bịnh
đều lành, liền có thai.
- Nếu có người nữ, làm băng và ra huyết trắng cả tháng mà không dứt, nên
lấy rễ của cây A Lam Bộ hoặc rễ cây Chàm Xanh cỡ bằng nắm tay, bóp thật nhỏ hòa
với sữa chưng chín, chú 108 biến, khiến người bịnh uống tức bịnh liền lành.
- Nếu bị đau đầu nên lấy lông cánh của con chim chú bảy biến, quét phết nơi
chỗ đau liền bớt vĩnh viễn.
- Nếu người bị sốt rét, một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày sinh ra, hoặc
thường đau nóng, hoặc tạm thời đau nóng, lấy sữa nấu với cháo hòa chung với bơ,
chú 108 biến cho người bịnh ăn thì bịnh liền lành. Hoặc có người bị kẻ khác trù
ếm, bị trúng độc trùng, nên làm phương pháp phản duyên tâm, chú tự nơi mặt mình
108 biến xong nhìn người bịnh kia thì bịnh liền lành.
- Nếu người bị tà quỷ Yết Tra, Bố Ðơn Na v.v… các quỷ làm bịnh, hay bị tất
cả cá kẻ phi nhơn làm não loạn, nên chú nơi tay mình 108 biến, rờ vuốt trên đầu
người bịnh kia, liền các thứ bịnh đều lành.
- Nếu có người bị rắn rết cắn, hoặc chó dại cắn, lấy hơi thở người trì chú,
thổi vào chỗ bị cắn, chú 49 biến thì liền lành.
- Nếu có người bị bịnh lác, bịnh gầy đét ấy, nên tắm rửa sạch sẽ, nơi tịnh
thất thanh tịnh đóng cửa ở trong đó, thường trì tụng chú này thì bịnh liền
lành.
Phàm người trì tụng Thần chú này, phải thường xa lìa người ác, xa nơi dơ uế
bất tịnh, không được gần rượu thịt và ngũ tân, hết lòng trì tụng, không được
trái phạm.
Nếu thường mỗi ngày trì tụng một biến bảo hộ được thân, nếu tụng hai biến
bảo hộ đồng bạn, nếu tụng ba biến bảo hộ được mọi người trong nhà, nếu tụng bốn
biến bảo hộ được một thôn, nếu tụng năm biến bảo hộ được một thành, nếu tụng
một trăm biến bảo hộ được một nước, nếu tụng một ngàn biến thì bảo hộ được bốn
thiên hạ.
Tóm lại mà nói thì lành bịnh, hộ thân, tùy thời lợi ích, nếu ra làm việc gì
tùy ý thành tựu.
Lúc bấy giờ, chư Thiên, đại chúng nghe Phật nói Nhất Tự Chú Vương kinh rồi,
đều vui mừng vâng giữ.
(Nếu lại có người cầu
giải thoát, được đại lợi ích muốn hiện tiền chứng quả, thì hết lòng làm theo
các pháp của chú này, được tất cả như lời nói trong kinh).
MẠN THÙ THẤT LỢI BỒ TÁT CHÚ TẠNG TRUNG
NHẤT TỰ CHÚ VƯƠNG KINH
IV
LỜI PHỤ: Bổn kinh cũ, Thần chú có bốn mươi ba chữ. Ðời Ðường vua Thái Tôn, nhiều người trì quá linh nghiệm, cho nên bỏ bớt mười chữ. Nay lục trong bổn cũ ra, khiến mau được linh nghiệm, không chú nào qua Thần chú này:
THẦN CHÚ UẾ TÍCH CHƠN NGÔN
ÐẠI VIÊN MÃN ÐÀ RA NI
“Úm, bút quát hốt lốt, ma ha bát ra, ngân na ngái, vẫn trấp vẫn, hê ma ni, vĩ hiệt vĩ, ma na thê. Úm, chước cấp na, ô thâm một hốt lốt, hùm hùm hùm, phấn phấn phấn phấn phấn, tóa ha.”
UẾ TÍCH KIM CANG THUYẾT THẦN THÔNG ÐẠI MÃN ÐÀ RA NI
PHÁP THUẬT LINH YẾU MÔN
Bắc
Thiên Trúc, Sa Môn Tam Tạng
A Chất
Ðạt Tần truyền sang từ đời Ðường.
Ngài
Vô Năng Thắng Tướng dịch Phạn ra Hán.
Sa Môn
Thích Viên Ðức dịch thành Việt văn.
Tôi nghe như vầy, một thời Ðức Phật ở
tại Câu Thi Na, xứ Lực Sĩ Xanh, gần bên sông Bạc Ðề trong rừng Sa La Song Thọ.
Lúc bấy giờ đức Như Lai sắp nhập Niết Bàn, khi đó có vô lượng trăm ngàn vạn
chúng, hết thảy trời, rồng, tám bộ người và phi nhơn … đứng chung quanh bốn phía
Ðức Phật than khóc buồn rầu khổ não.
Bấy giờ lại có chư Thiên, đại chúng, như ông Thích Ðề Hoàn Nhơn v.v… đều
đến cúng dường, chỉ có ông Lễ Kế Phạm Vương, đem chư Thiên nữ, nương ở bốn phía
đoanh vây chung quanh ông mà ngồi, Thiên nữ trước sau, cả thảy ngàn vạn ức
chúng cùng chung vui chơi. Nghe đức Như Lai vào cõi Niết Bàn mà không đến thăm
hỏi.
Bấy giờ chư đại chúng liền nói: Ngày nay đức Như Lai vào Niết Bàn, vậy sao
Phạm Vương kia không đến ư?! Vương kia chắc có tâm ngã mạn mới không đến đây.
Hết thảy đồ chúng chúng ta nên sai khiến tiểu Chủ Tiên, đến nơi kia khiến họ
về. Nói lời ấy rồi liền vội thúc trăm ngàn chúng Chú Tiên đến chỗ nơi ấy mới
thấy các thứ bất tịnh làm thành vách. Tiên kia thấy rồi thảy đều phạm chú mà
chết.
Bấy giờ đại chúng ngạc nhiên chưa từng có, lại thúc vô lượng Kim Cang cũng
khiến trì chú mà đi, mãi đến bảy ngày không người tới được. Ðại chúng thấy việc
đó rồi, thêm phần buồn rầu.
Bấy giờ đại chúng đồng thinh mà nói kệ rằng:
“Khổ thay Ðại Thánh Tôn,
Niết Bàn sao mau quá?
Các trời còn quyết định,
Không người được tìm kêu,
Ðau xót thầy cõi trời,
Niết Bàn như lửa tắt.”
Bấy giờ, chư đại chúng nói kệ này rồi lại bội phần gào khóc buồn khổ thảm
thiết. Lúc ấy đức Như Lai thương xót chư đại chúng liền dùng Ðại biến Tri Thần
Lực nơi bên tay trái của quả tim mà hóa ra Kim Cang bất hoại. Liền từ chỗ ngồi
ở trong đại chúng mà đứng dậy bạch đại chúng rằng: Tôi có đại Thần chú, hãy thu
lấy Phạm Vương kia. Nói lời ấy rồi liền ở trong đại chúng hiển bày thần thông
làm cho Tam thiên đại thiên thế giới chấn động, cung trời, cung rồng cùng các
cung điện quỷ thần thảy đều sụp đổ, liền tự thân bay đến chỗ Phạm Vương kia lấy
tay chỉ đó, các thứ vật xú uế kia biến làm đại địa.
Bấy giờ Ngài Kim Cang bảo với người kia rằng: Ngươi thật là đại ngu si, đức
Như Lai ta muốn vào cõi Niết Bàn, sao ngươi không đến? Liền lấy sức bất hoại
Kim Cang mà chỉ đó, Phạm Vương phát tâm đến chỗ đức Như Lai.
Bấy giờ đại chúng khen ngợi rằng: Ðại Lực Sĩ, người thật là đại thần lực
mới đem Phạm Vương về đến nơi đây. Lúc đó Ngài Kim Cang liền nói rằng: Nếu có
chúng sanh nào trong thế gian bị chư Thiên ác ma hung mãnh và các ác quỷ, hết
thảy các ngoại đạo làm não loạn, người ấy chỉ tụng Thần chú của ta mười vạn
biến, ta tự hiện thân mà hộ hết thảy các hữu tình, tùy ý mà được viên mãn, vĩnh
viễn xa lìa nghèo cùng khốn khổ, thường được an vui. Thần chú này có công năng
như thế. Trước phát lời đại nguyện, niệm đức Bổn Tôn của ta: Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật.
Sau khi đức Như Lai diệt độ, nếu ai thọ trì Thần chú này thệ độ quần sanh,
khiến cho Phật Pháp bất diệt, cửu trụ ở đời, phát lời nguyện ấy rồi liền thuyết
Thần chú Uế tích Chơn ngôn Ðại Viên Mãn Ðà Ra Ni rằng:
“Úm, bút quát hốt lốt, ma ha bát ra, ngân na ngái, vẫn trắp
vẫn, vĩ hiệt vĩ, ma na thê, ô thâm mộ hốt lốt, hùm hùm phấn phấn phấn tóa ha.”
Bấy giờ Ngài Kim Cang thuyết Thần chú này rồi lại nói nữa rằng: Sau khi đức
Như Lai diệt độ, nếu ai thường tụng Thần chú này, nếu có chúng sanh thỉnh
nguyện thọ trì Thần chú đây, tôi thường vì sự sai khiến của người ấy mà làm cho
họ sở cầu như nguyện. Tôi nay trước đức Như Lai mà nói Thần chú này, cúi xin
đức Như Lai trong cõi Niết Bàn thấu rõ cho chúng con. Bạch Thế Tôn! Nếu có
chúng sanh bị nhiều thứ quỷ, ác thần làm não loạn, trì Thần chú này đều không
thể làm hại, vĩnh viễn xa lìa các khổ nạn.
Bạch Thế Tôn! Nếu có kẻ trai lành và người gái tín nào muốn cứu trị lành
vạn bịnh thì tụng Thần chú của con, trên bốn mươi vạn biến, thấy có các bịnh,
trị đều hiệu nghiệm, không luận sạch hay dơ, tùy ý sai khiến, con thường theo
gia hộ, hết thảy các sở nguyện đều được viên mãn.
Nếu muốn cây khô sanh cành lá, lấy một lượng Bạch giao hương để thoa trong
tim cây, lấy cành dương chi chú trong cây một trăm biến, ngày ba thời cho mãn
ba ngày, cây liền sanh hoa trái.
Nếu muốn suối khô có nước, lấy vôi sạch mà rải khắp chung quanh ấy, lấy hoa
tốt bỏ vào trong ba mươi lít nước sạch ở giếng, đem để ở trong giữa lòng suối,
giờ Dần buổi sáng chú 108 biến, nước liền phun ra như bánh xe quay.
Nếu muốn núi khô sanh cây cỏ, lấy dao thép bén búa bốn hướng của núi ấy,
chú ba ngàn biến, mãn bảy ngày liền sanh cây cỏ.
Nếu muốn khiến loại dã thú hung mãnh đến hàng phục, lấy An tất hương, nhìn
về hướng có dã thú ấy mà đốt, chú một ngàn biến, đêm lại các dã thú kia kéo
nhau tụ tập trước cửa nhà của người trì chú, quy hàng hiền hậu, giống như gia
súc mình nuôi vậy, tùy ý sai bảo, đời đời không xa lìa.
Nếu muốn quỉ dạ xoa tự đến hàng phục, lấy mười nhánh đào tề cho bằng gốc,
lấy năm mươi lít nước đổ vào bình sành (cái thạp) đem nấu, bỏ đào liễu ấy vào
ngâm, xong lấy ra, lấy ba lượng đinh hương, ba lượng lớn nhủ đầu hương, ba
lượng lớn bạch giao hương, sau cùng hòa trong năm mươi lít nước nấu đào liễu ấy
liền đem đổ trong một cái chậu bể, lấy nhánh đào dài ba thước mà khuấy nước đó,
tụng chú một trăm biến, hết thảy quỷ dạ xoa, la sát đều đến hiện hình, cùng
người làm pháp này mà hầu chuyện, cầu xin theo làm thị giả.
Nếu muốn diệt ác tâm của các quỷ thần, độc xà, rắn rết, những mãnh thú hung
dữ v.v… lấy vôi sạch rải khắp cửa hang của chúng, tự nhiên chúng chui ra, tụng
chú nho nhỏ một trăm biến thì các rắn độc trùng thú kia liền diệt hết tâm độc,
không dám làm tổn thương người khiến mau được giải thoát.
Nếu muốn chó dữ không cắn người, lấy một nắm cơm chú bảy biến vào cho nó
ăn, vĩnh viễn không cắn người mà cũng không còn gầm sủa hung hăng.
Nếu muốn người ác đến hàng phục mình, viết tên họ người ấy để dưới bàn
chân, chú một trăm biến, tâm mình nghĩ đến người kia, người kia liền đến hàng
phục, bỏ hết tâm oán ghét.
Nếu muốn hàng phục người nhau, viết tên họ của hai người đó, để dưới bàn
chân tụng chú hai trăm mười tám biến thì hai người ấy đời đời xa lìa, không còn
thương mến.
Nếu có người ghét nhau, muốn khiến họ thương kính mến nhau, liền viết tên
họ của các người ấy để dưới bàn chân tụng chú 100 lẻ tám biến thì các người ấy
thương kính mến nhau, đời đời không xa lìa.
Nếu có người chưa an lạc, muốn khiến họ được an lạc cũng làm như trước,
viết tên họ của người ấy dưới bàn chân, chú ba trăm biến thì người kia được an
vui, nên vì người kia phát lời đại nguyện, ta đối với người ấy, khi bấy giờ
liền tự đem vô lượng trân bảo ban cho người nghèo cùng, thảy được đầy đủ. Lại
phép nữa: Nếu người trì chú cầu các món trí, cầu các món huệ, chỉ tụng chú mười
vạn biến tự được các món đại trí huệ và các thứ thiện mỹ, biện tài trôi chảy,
tùy ý mà được, chỗ cần dùng ấy thảy đều ban cho.
Nếu người trì chú cầu các thứ trân bảo, ma ni như ý châu v.v… chỉ chí tâm
tụng này, tùy theo nhiều ít, ta liền ban cho họ, được mãn sở nguyện.
Nếu muốn trị lành người bịnh thì nên kiết ấn Ðốn bịnh (nước lấy tay trái,
ngón trỏ, ngón giữa quấn lại với nhau) kiết ấn như vậy, chú 108 biến, lấy ấn
Ðốn bịnh này quơ quơ bảy lần dưới người bịnh, người ấy liền mạnh.
Nếu trị bịnh người sắp chết, trước kiết ấn Cấm ngũ lộ, sau mới trị tức bịnh
liền dứt. Ấn này cũng giống như trước, chỉ khác là ngón vô danh co vào trong
lòng bàn tay, ngón út thẳng ra, chú một trăm biến bịnh liền lành.
Nếu trị bịnh tà, chỉ ở bên đầu người bịnh, xông An tức hương, tụng chú thì
bịnh liền lành.
Nếu trị bịnh trùng độc, viết tên họ của người ấy trên giấy, tụng chú thì
bịnh liền lành.
Trị bịnh tinh mị cũng như pháp trước mà trừ.
Nếu trị bịnh nằm liên miên, viết tên họ người bịnh cùng tên họ của con quỷ
làm bịnh, vùi dưới giường tụng chú, con quỷ theo tên họ mà hiện hình, khiến con
quỷ ấy nói việc ba đời mỗi mỗi hướng về người bịnh mà nói thì bịnh liền lành.
Nếu có bịnh thời khí, thấy vị Sư trì chú này thì bịnh liền lành.
Nếu muốn khiến Hành bịnh Quỷ vương không vào địa giới của mình thì vào mười
ngày trai (thập trai) tụng chú của tôi 1008
biến, năng trừ vạn dặm bịnh hoạn.
Bấy giờ Ngài Kim Cang lại bạch Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu có kẻ trai lành người gái tín nào trì chú của con mà vô
hiệu nghiệm thì không lẽ đó.
Muốn khiến núi sập, lấy ba mươi lít hột cải trắng, lấy An tất hương loại
tốt, vì nghi trong núi ấy có vật báu, lấy một dao thép bén, búa bốn hướng của
núi ấy, làm giới hạnh lấy một cái khăn sạch, một cái lư hương xông An tất
hương, trước tụng 1008 biến, lấy hột cải trắng rải khắp bốn phía cho đến bảy
lần, làm phép ấy thì núi liền sập. Nếu có của báu trong đó thì vị thần giữ kho
liền bỏ kho báu mà đi, tha hồ lượm lấy.
Nếu muốn biển khô nước, trước tiên chú 1008 biến, lấy vàng hoặc đồng làm
thành hình con rồng, quăng xuống biển, nước biển liền khô cạn.
Nếu muốn khiến nước sông, suối chảy ngược, lấy An tất hương nắn thành hình
con voi, không luận lớn nhỏ, ném xuống nước chú 108 biến, tức nước liền chảy
ngược. Muốn khiến chảy lại như cũ, tụng chú trong hòn đá sạch, quăng xuống nước
thì nước chảy như xưa.
Nếu có chớp nháy, sấm sét, rồng độc làm bão lụt mưa gió liền kết ấn Chỉ Lôi
Ðiện (lấy tay trái, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út, co vào trong
lòng bàn tay, thẳng ngón cái ra, nắm trên tiết thứ nhất của ngón trỏ) tụng chú mà chú đó, quơ quơ về hướng ấy, sấm sét liền hết.
Nếu muốn khiến hết thảy quỉ thần đến hàng phục để sai sử, lấy ba mươi lít
nước đổ vào cái bát bằng đồng, lấy vôi sạch rải chung quanh rồi kiết ấn Giáo
Nhiếp Lục lấy hai ngón vô danh trong lòng bàn tay, dựa lưng của hai ngón tay ấy
vào nhau, hai ngón tay giữa chạm đầu lại , hai ngón trỏ và hai ngón út xòe ra
như hoa nở, hai ngón tay cái vịn tiết giữa của hai ngón trỏ) kiết ấn như vậy
niệm Thần chú 108 biến thì các loại ác quỉ trong thế giới đều vân tập , tự hiện
thân hình, bỏ tâm ác độc, làm theo người sai khiến.
Nếu cấm núi không cho các loại đến, tụng chú 100 biến, kêu lớn ba tiếng,
liền kiết ấn Nghiệp Sơn (lấy tay phải, ngón vô danh co trong lòng bàn tay, ngón trỏ,
ngón giữa, ngón cái, tất cả các ngón đều thẳng ra) hướng lên trên tụng chú bảy biến, liền lui ra sau bảy bước
rồi mới ấn lên núi ấy, thì ở trong núi, tất cả chim thú .v.v… liền rời khỏi
núi. Nếu kiết ấn này, chú bảy biến hướng lên hư không ấn 21 lượt thì trên hư
không mảy trần không qua lọt.
Nếu muốn khiến người không nói được, trước viết tên họ của người ấy bỏ vào
trong miệng mình rồi ngậm lại, thì người ấy miệng không nói được, nhả ra liền
nói được.
Nếu tụng tất cả chú khác, trước phải làm đàn, còn tụng chú này của tôi (Kim
Cang) thì khỏi làm đàn, chỉ lấy gỗ đẽo một
cái chày Kim Cang đem để nơi trong tháp Phật hoặc trong tịnh thất, dùng các
hương thơm cúng dường thoa đất, tùy theo chày lớn nhỏ, nên cần các thứ hương
hoa cúng dường, để chày trong đàn, tụng chú 108 biến thì cái chày ấy liền tự
động hoặc biến hiện các vật lạ, không lấy gì làm ngạc nhiên, sợ hãi. Lại nữa!
Tụng chú 108 biến thì cái chày ấy tự nhích lên ba thước rồi lại năm, sáu, bảy
thước cho đến một trượng trở lại.
Người trì pháp này liền quỳ xuống quy y sám hối, phát lời nguyện, thì ta ở
trong ấy liền hiện chơn hình, tùy theo ý của người đó làm theo khiến cho họ các
sở nguyện mau được như ý. Tôi liền thọ ký cho họ được đắc quả Bồ đề, liền được
thân tâm giải thoát. Trước trì tụng mười vạn biến cho đầy đủ vậy, sau mới làm
các phép tắc, nếu chưa đủ túc số như vậy thì không được hiệu nghiệm.
Bấy giờ, Ngài Uế Tích Kim Cang nói Thần chú này rồi, đại chúng đồng khen
rằng: Hay thay đại lực sĩ, Ngài hay nói pháp đại nhiệm mầu này, thật là tối
thượng, khiến cho tất cả chúng sanh đều được giải thoát.
Bấy giờ, Ngài Uế Tích Kim Cang liền bạch đại chúng rằng: Các vị phải biết,
đối với pháp của tôi mà lưu hành đến chỗ nào, tôi và tất cả đại thần Kim
Cang thường theo gia hộ cho người trì pháp này, trợ giúp cho họ mau được thành
tựu.
Bấy giờ, Ngài Uế Tích Kim Cang lại nói nữa rằng: Nếu có chúng sanh nào thọ
trì pháp này, tôi liền hiện thân trước người ấy làm cho họ sở cầu được như
nguyện. Tôi cũng ban cho họ được các phép hóa hiện, các thứ thần thông, không
bị chướng ngại, nhưng phải thường niệm danh hiệu đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật của chúng ta, tôi thường theo đến đó, khiến cho tất cả các pháp đều được
thành tựu.
Bấy giờ Ngài Kim Cang tiếp nói các phù ấn sau đây:
ẤN PHÁ ÐỆ NHỊ
Ấn này khắc vuông một tấc tám phân, chú một ngàn biến, dùng Bạch giao hương
thoa. Ngày khắc ấn này không được cho người thấy. Dùng ấn in nơi tâm (ngực) thì
được Tâm trí, Tự nhiên trí, Túc mạng trí. Trì ấn này một trăm ngày liền được
các Ðại pháp môn.
Ấn này khắc vuông một tấc hai phân, chú 600 biến, lấy An tất hương
thoa, đeo nơi thân, khiến tất cả mọi người thấy mình đều vui mừng, được
Ðại tự tại, xa lìa vĩnh viễn ác khổ.
Ấn này khắc vuông một tấc năm phân, chú 600 biến, lấy Bạch giao hương thoa.
Dùng ấn in dưới lòng bàn chân liền bay được trên hư không, tùy ý mà bay đến các
hướng.
Ấn này khắc vuông một tấc tám phân, dùng Bạch giao hương thoa, chú 7000
biến, dùng ấn in nơi chân, có thể ngày đi 300 vạn dặm người không thấy được.
CƯỚC CHÚ: Bốn ấn vuông trên đã đo đúng thước tấc của Tàu. Quý vị tu trì
cứ nương đây làm khuôn mẫu.
Người bịnh liên miên,
viết bùa này nơi tim (ngực) họ, thì bịnh liền lành.
“Ðại kiết cấp cấp như luật lịnh.”
Ðau tim, viết bùa này
lập tức liền trừ lành.
“Ðại kiết lợi cấp cấp như luật lịnh.”
Trước tụng chú bảy biến.
Bịnh quỷ, lấy màu đỏ
viết cho uống đó.
Người bị bịnh Tinh mị
quỷ, lấy màu đỏ, viết bảy lá lớn cho uống liền lành, rất thần nghiệm.
Nếu người làm pháp này,
lấy vải sa tanh trắng (một trượng bảy) 10m7 tấc, đem giặt cho thật trắng, để
trong Ðại luân thế giới (quả địa cầu) khiến người sống lâu 70 tuổi. Nếu không
có người làm được vậy, thì ở trong chính giữa sân nhà, đào đất 7 thước, chôn vải
ấy thì được thông minh, tăng trưởng trí huệ, biện tài vô ngại.
Bảy chữ bùa này có công
năng trị vạn bịnh, viết mà uống đó, khiến cho người sống lâu, tăng trưởng trí
huệ rất đại thần nghiệm.
Bảy chữ bùa này, dùng
màu đỏ viết trên giấy, uống 1000 cái (vò viên bằng múi cam) khiến người sống lâu ngang bằng trời đất. Khi làm pháp
này không được cho người thấy.
Bảy chữ bùa trên, nếu có
người bị các thứ bịnh, viết bùa này uống đều được trị lành. Nếu người viết bùa
này uống đó thì được sống lâu, tăng trưởng trí huệ, rất đại thần nghiệm vậy.
Bảy chữ bùa trên, nếu có
cầu các thứ trân bảo, dùng màu đỏ viết bùa này uống, cho mãn bảy ngày thì có
các thứ trân bảo tự nhiên đem đến. Nếu cầu tài vật của người, viết tên họ người
ấy để dưới bùa này thì người kia liền đem tài vật dâng đến.
Ba chữ bùa trên, dùng
màu đỏ viết, dán trên bốn chân giường, thì thường có tám vị đại Kim Cang theo
gia hộ, không tạm bỏ rời. Nhưng phải uy nghiêm, thanh tịnh, không được cho các
vật ô uế vào phòng, phải cẩn thận dè dặt đó.
Khi có nạn lửa lớn bốc
cháy, viết chữ bùa này ném vào đó, tụng chú 108 biến, hướng có nạn lửa ấy tự
nhiên tắt.
Khi có gió lửa ác nổi
lên (bão lửa) viết bùa này, chú 108
biến, ném vào hướng gió đó, thì ác kia liền diệt.
Khi có nước lớn nổi lên,
viết bùa này ném vào trong nước lớn đó, lập tức dứt nước chảy, không làm chìm
người được.
Khi có mưa lụt lớn, viết
bùa này, chú 108 biến ném vào hướng có mưa đó, lập tức đình lại.
Dùng màu đỏ viết bùa
này, uống ba lá thì mới có thể viết bùa cho người khác, tức có linh nghiệm.
Nếu không làm như vậy,
dùng các bùa đều vô nghiệm.
Ðây là chày Kim Cang!
Các vị tu về pháp Kim Cang, lấy gỗ thơm, y đây mà đẽo chày.
Bấy giờ Ngài Uế Tích Kim
Cang nói pháp này rồi đại chúng thêm phần vui mừng, cùng chư Thiên Long, đại
quỷ thần v.v… vâng lời dạy mà làm lễ lui về.
LỜI
PHỤ: Bổn kinh cũ, Thần chú
có bốn mươi ba chữ. Ðời Ðường vua Thái Tôn, nhiều người trì quá linh nghiệm,
cho nên bỏ bớt mười chữ. Nay lục trong bổn cũ ra, khiến mau được linh nghiệm,
không chú nào qua Thần chú này:
“Úm, bút quát hốt lốt, ma
ha bát ra, ngân na ngái, vẫn trấp vẫn, hê ma ni, vĩ hiệt vĩ, ma na thê. Úm, chước
cấp na, ô thâm một hốt lốt, hùm hùm hùm, phấn phấn phấn phấn phấn, tóa ha.”
Ngài Chơn Giác đàn sư,
truyền Thần chú này, cũng đồng với Thần chú trong kinh, nhưng về âm Phạn cũng
có vài chữ khác biệt chút ít.
“Úm, phù hấu khốt lốt,
ma ha bát na, ngân na hủ, vẫn phấn vẫn, vĩ hiệt vĩ, ma na thê, ô thô mồ khốt
lốt, hồng hồng hồng, fát fát fát tóa ha.”
UẾ TÍCH KIM CANG THUYẾT THẦN THÔNG ÐẠI MÃN ÐÀ RA NI
PHÁP THUẬT LINH YẾU MÔN
V
BẮC ÐẨU THẤT TINH DIÊN MẠNG
- Vị
Tăng tên Bà la môn, từ Thiên Trúc
truyền đến đời triều vua Ðường ở Trung Hoa thọ trì.
- Sa Môn
Thích Viên Ðức dịch thành Việt văn.
Nam Mô Tham Lang tinh,
Thị Ðông phương Tối Thắng thế giới Vận Ý Thông Chứng Như Lai Phật.
Nam Mô Cự Môn tinh, thị
Ðông phương Diệu Bảo thế giới Quan Âm Tự Tại Như Lai Phật.
Nam Mô Lộc Tồn tinh, Thị
Ðông phương Viên Mãn thế giới Kim Sắc Thành Tựu Như Lai Phật.
Nam Mô Văn Khúc tinh,
Thị Ðông phương Vô Ưu thế giới Tối Thắng Kiết Tường Như Lai Phật.
Nam Mô Liêm Trinh tinh,
Thị Ðông phương Tịnh Trụ thế giới Quảng Ðạt Trí Biện Như Lai Phật.
Nam Mô Vũ Khúc tinh, Thị
Ðông phương Pháp Ý thế giới Pháp Hải Du Hí Như Lai Phật.
Nam Mô Phá Quân tinh,
Thị Ðông phương Lưu Ly thế giới Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật.
Hằng năm nếu gặp tai ách
lễ kinh này bảy lạy.
Khi bấy giờ Phật bảo
Ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: “Kinh này đã nói có đại oai thần lực” có công
năng cứu độ tất cả trọng tội và hay diệt hết thảy nghiệp chướng của tất cả
chúng sanh.
Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu
Ni, tể quan, cư sĩ, kẻ trai lành, người gái tín, hoặc sang, hoặc hèn, trong đời
sống không luận lớn nhỏ đều thuộc sự thống lãnh của bảy vị tinh tú này chiếu
soi.
Nếu nghe kinh này thọ
trì, cúng dường, chuyển đọc, khuyên bạn hữu, thân tộc, cốt nhục của mình thọ
trì, thì hiện đời được phước, đời sau sanh lên chư Thiên.
Nếu kẻ Thiện nam và
người Thiện nữ nào có kẻ tiên vong đã qua đời mà bị đọa vào địa ngục, hoặc chịu
các thứ khổ sở. Nếu nghe kinh này tin kính cúng dường thì kẻ tiên vong kia liền
xa lìa khỏi chốn địa ngục, được vãng sanh về cõi Cực Lạc thế giới.
Nếu có kẻ thiện nam và
người thiện nữ nào, hoặc bị loài quỷ mị xâm hại, hay tà ma quấy nhiễu, ác mộng
quái lạ, hồn phách kinh sợ, nếu nghe kinh này thọ trì cúng dường hồn phách liền
được yên ổn, không còn lo sợ.
Nếu có kẻ trai lành và
người gái tín nào, hoặc có sĩ quan sắp bổ chấp chánh. Nếu gặp kinh này tín kính
cúng dường thì vị quan ấy liền được mời sang địa vị cao cấp, được đại kiết
tường.
Nếu có trai lành và
người gái tín, thân bị tật bịnh triền miên, muốn cầu nhẹ nhàng, nên vào tịnh
thất thắp hương cúng dường kinh này, thì tật bịnh ấy liền được lành hẳn.
Nếu có kẻ trai lành và
người gái tín muốn được tấn đạt, ra đi may mắn, cầu tài vừa ý, buôn bán phát
đạt. Nếu gặp kinh này, tin kính cúng dường liền được tiền tài giàu có, vào ra
an lành.
Nếu có kẻ trai lành và
người gái tín nuôi tằm hư hao, lục súc chẳng yên, liền ở tịnh thất thắp hương
cúng dường kinh này, ruộng tằm vừa ý, lục súc sum vầy, không còn tổn thất cũng
chẳng tai chướng.
Nếu có người nữ suốt
tháng mang thai, khó khăn nặng nề, nếu gặp kinh này tín kính cúng dường, mẹ con
liền được phân giải nhẹ nhàng, ách nạn tiêu trừ, sanh con trai gái, thân hình
đẹp đẽ, quả báo sống lâu.
Nếu kẻ trai lành và
người gái tín biết được Bắc Ðẩu Thất Tinh, rọi chiếu đời sống nhơn sinh của
mình thì trong một đời, hễ có tai ách quan sự miệng tiếng đồn đãi, trăm điều
quái lạ. Nếu gặp kinh này tín kính cúng dường thì không còn một việc gì mà phải
phòng hại.
Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát nói lời ấy rồi, hết thảy thiện nam tín nữ cung kính tín thọ làm
lễ mà trở về.
BẮC ÐẨU THẤT TINH DIÊN MẠNG
VI
PHẬT NÓI THẤT TINH CHƠN
NGÔN THẦN CHÚ
Úm, Táp Ðá Nhi Nẵng Giả,
Bán Nhá Mật Nhá Giả, Nhiễm Phổ Tha, Ma Ta Phạ, Nhị Nẵng Ra Khất Sơn Bà Phạ Ðô
Xóa Ha (108 lần).
1. Tham Lang tinh
(sao Tham Lang). Người sanh giờ Tý hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu gặp
nguy nạn, nên dùng món ăn gạo, lúa mạch cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù
thì được đại kiết.
2. Cự Môn tinh (sao Cự
Môn). Người sanh giờ Sửu, giờ Hợi đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu
khi gặp nguy nạn, nên dùng món ăn lúa, nếp cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh
Phù thì được đại kiết.
3. Lộc tồn tinh (sao Lộc
Tồn). Người sanh giờ Dần, giờ Tuất đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh.
Nếu khi gặp hoạn nạn, nếu dùng món ăn lúa tẻ cúng dường kinh này và đeo bổn
Tinh Phù thì được đại kiết.
4. Văn Khúc tinh sao
(sao Văn Khúc). Người sanh giờ Mẹo, giờ Dậu đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ
sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn, nên dùng món ăn hạt đậu nhỏ cúng dường kinh này và
đeo bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
5. Liêm Trinh tinh (sao
Liêm Trinh). Người sanh giờ Thìn, giờ Thân đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ
sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn nên dùng món ăn hạt mè cúng dường kinh này và đeo
bổn Tinh Phù thì được đại kiết.
6. Vũ Khúc tinh (sao Vũ
Khúc). Người sanh giờ Tỵ, giờ Mùi đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu
khi gặp hoạn nạn nên dùng món ăn hạt đậu lớn cúng dường kinh này và đeo bổn
Tinh Phù thì được đại kiết.
7. Phá Quân tinh
(sao Phá Quân). Người sanh giờ Ngọ hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi
gặp hoạn nạn, nên dùng món ăn hạt đậu nhỏ cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh
Phù thì được đại kiết.
Tụng trì Thần chú dưới
đây:
Úm táp đá nhi nẵng dã,
bán nhá mật nhá dã, nhiễm phổ tha ma tap ha nhị nẵng ra khất sơn bà phạ đô xóa
ha.
Nếu có người mỗi ngày
tụng Thần chú này quyết định tội nghiệp thảy đều tiêu trừ và tất cả sở nguyện
cầu đều được thành tựu. Nếu mỗi ngày tụng Thần chú này 108 biến, thân mình và
tất cả quyến thuộc đều được phò hộ. Nếu tụng 500 biến được sức đại oai thần
trong 500 do tuần, tất cả ma vương, các ma chúng, kẻ chướng ngại và vô lượng ác
quỷ không dám gần gũi, thường được ủng hộ.
PHẬT NÓI THẤT TINH CHƠN NGÔN THẦN CHÚ
VII
NAM MÔ NHẤT THIẾT CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM VƯƠNG KINH
HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT
MA HA TÁT (3 LẦN)
TRANG NGHIÊM VƯƠNG
Ðời Ðường, Ngài Tam Tạng pháp sư
Nghĩa Tịnh
phụng chiếu dịch Phạn ra Hán.
Thích Viên Ðức dịch thành Việt văn.
Như thật tôi nghe,
một thời đức Bạc Già Phạm ở tại thành Vương Xá, nơi Yết Lan Ðạt Ca, trong vườn
Trì Trúc Lâm cùng các đại Bí sô chúng, đầy đủ 500 người. Các vị đại Bồ Tát gồm
có 1.200 vị, đều đắc Ðà Ra Ni, biện tài trôi chảy, được trí vô nhiễm, dạo vô
ngại cảnh, khéo quyền phương tiện, nhiếp dẫn chúng sanh, quán sát thế gian, tâm
hành bình đẳng, nhiêu ích từ bi, lòng ưa thuần tịnh, ở chỗ chư Phật, pháp mầu
thâm sâu, thường hay thưa hỏi.
Các Ngài ấy gọi rằng:
Từ Thị đại Bồ Tát, Thường Cần Dũng đại Bồ Tát, Bình Ðẳng Trụ đại Bồ Tát, Ðại
Huệ đại Bồ Tát, Vô Biên Biện đại Bồ Tát, Dũng Huệ đại Bồ Tát, Quán Tự Tại đại
Bồ Tát, Trừ Nghi đại Bồ Tát. Những vị đại Bồ Tát Ma Ha Tát như vậy đều là bậc
Thượng thủ. Còn có các vị Thích, Phạm, Hộ Thế, Tứ Thiên Vương, Long, Thần, Bát
Bộ và các ngoại đạo, số có sáu ngàn (6000) cùng đem quyến thuộc, thảy đều vân
tập những đại chúng này đều đến chỗ Phật, lễ chân Phật rồi hữu nhiễu ba vòng,
trời mưa hoa màu, tấu thiên âm nhạc, thiêu các danh hương làm lễ cúng dường.
Bấy giờ đại chúng đều
thốt lên rằng: Lành thay! Lành thay! Giáo pháp Như Lai, đủ đại oai đức, hễ có
lòng tin, hay đoạn phiền não, nói lời ấy rồi lại ngồi một bên.
Lúc ấy đức Thế Tôn
nhập vào “Năng đoạn hoặc ly cấu Tam ma địa”. Khi nhập định này, đại địa tức
liền sáu món chấn động. Trời mưa hương bột, mầu nhiệm chiên đàn, hoa thơm cõi
trời rưới khắp nơi ấy. Phóng đại hào quang chiếu khắp thế giới, nếu các hữu
tình đọa trong ác thú mong nhờ hào quang đều được giải thoát. Cho đến tất cả
Thiên, Long, Dược Xoa những chúng Bát Bộ, chỗ ở cung điện thảy đều chiếu sáng,
nghe thiên âm nhạc, hương trời mầu nhiệm. Chư Thiên thần kia thấy việc hy hữu
không thể nghĩ bàn, lòng sanh suy nghĩ, ai làm thần lực, thù thắng như thế
khiến đất đại động, trời mưa hương hoa, phóng đại hào quang chiếu sáng cung
thất thảy đều rực rỡ. Suy nghĩ thế rồi cùng nhau bảo rằng: Ðây là Như Lai hiện
đại oai đức, không phải các trời, hay có điềm ấy. Chúng ta nay đây hãy đến vườn
Trúc nơi chỗ Thế Tôn lễ bái cúng dường, nghe pháp mầu nhiệm. Các chư Thiên kia
cầm hoa Ốt bát la, hoa Câu vật đầu, hoa Phần đà lợi, hoa Tô kiện đề, hoa Mạn đà
la, hoa Ma ha Mạn đà la. Ðến chỗ Thế Tôn đầu đảnh lễ kính nơi hai chân Phật mà
vì cúng dường, trời mưa các hoa khắp cả đại địa, ngập đầy đầu gối chân. Chấp
tay cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan. Lại có Bồ Tát vô lượng phương khác như
Ngài Chấp Kim Cang Bồ Tát, Trang Nghiêm Vương Bồ Tát, cùng muôn ức chư Thiên
trì chú Thần vương, thấy hào quang lớn đều dùng oai lực làm diệu trang nghiêm,
hương hoa đẹp đẽ, các thứ âm nhạc qua đến chỗ Phật cùng các quyến thuộc đều
nhiễu ba vòng, chấp tay chí thành, lễ hai chân Phật, cúng dường đã xong, đầy đủ
oai nghi, lui ngồi một bên.
Bấy giờ, Ngài Từ Thị
và các đại Bồ Tát thấy các đại chúng đều đã vân tập khởi niệm thế này: Ta xem
đại chúng đều đến chỗ Phật, chắc sẽ diễn nói, pháp đó thù diệu không thể nghĩ
bàn, thảy đều lặng lòng chờ nghe lời mầu. Lúc lấy Thế Tôn biết các Bồ Tát tất
cả đại chúng lòng nghĩ như thế liền xuất thiền định dạy Bồ Tát Trang Nghiêm
Vương rằng: Này thiện nam tử! Ông hãy đi xem cõi đại địa này, sẽ thấy những gì.
Khi ấy Trang Nghiêm Vương Bồ Tát thừa giáo chỉ Phật từ tòa đứng dậy liền xem
đại địa, đã xem khắp rồi trở về chỗ Phật cung kính đảnh lễ nơi hai chân
Phật, rồi đứng một bên mà bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Con vâng lời Phật,
xem cõi đại địa đã có người trời, tất cả đại chúng đều đến vân tập, mong đức từ
bi vì các chúng sanh làm việc nhiêu ích.
Lúc bấy giờ, Ðức Phật
dạy Trang Nghiêm Vương Bồ Tát rằng: Ông nên nhất tâm lắng nghe ta nói. Ta nay
sẽ vì sáu mươi bốn ức chúng sanh hữu duyên, thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ đề.
Bấy giờ Chấp Kim Cang
Bồ Tát liền từ tòa đứng dậy chấp tay hướng Phật bạch đức Thế Tôn: Nay có vô
lượng ức số Thiên Long, Dược Xoa và các La Sát, Càn Thát Bà, A Tô La, Yết Lỗ
Trà, Khẩn Na La, Mạc Hô Lạc Già, Người và Phi nhân cùng các ngoại đạo đều đến
vân tập. Bạch đức Thế Tôn! Nay chính là lúc, mong Ngài vì nói. Kinh Nhất Thiết
Công Ðức Trang Nghiêm Vương hay tiêu hết thảy nghiệp chướng, hay diệt các tội
khổ, hay dứt tất cả ma nghiệp, hữu tình chưa tin khiến sanh kính tín, trừ bỏ
đói khát, thường được giàu vui, tiêu các bệnh tật, xa lìa uổng tử, cũng khiến
hữu tình, dứt trừ hối hận đều được an ổn, thường thọ khoái lạc. Bạch đức Thế
Tôn! Con lúc xưa kia từng ở chỗ Phật Ðiển Quang nghe thọ kinh này vừa được nghe
xong, tất cả diệu pháp đều được hiện tiền, tất cả ác đạo thảy đều đóng bít, chỗ
có nghiệp chướng đều được tiêu trừ. Cúi mong Như Lai từ bi xót thương vì chúng
diễn nói. Thưa lời ấy rồi Thế Tôn yên lặng.
Bấy giờ Ngài Chấp Kim
Cang Bồ Tát cũng lại ân cần ba lần thưa thỉnh, nói pháp như thế. Ðức Phật dạy
Chấp Kim Cang Bồ Tát rằng: Này thiện nam tử! Ông chớ thỉnh ta nói kinh Nhất
Thiết Pháp Công Ðức Trang Nghiêm Vương, vì cớ sao thế? Ta nếu nói ra, đối với
đời ác sau này sẽ có chúng sanh không thể tín thọ, lại nói như vầy: Kinh đây
chẳng phải Như Lai tuyên nói, cũng chẳng khen ngợi, hủy báng kinh này hay chiêu
hai món thiện ác nghiệp báo. Bởi chúng sanh kia vì tội xan tham, không hay cung
kính cúng dường kinh điển, đối thuyết pháp sư cũng không gần gũi, hủy báng kinh
này, rộng làm bất tín, ở trong hiện đời tạo các ác nghiệp, về đời mai sau đọa
trong địa ngục, chịu khổ đốt cháy. Này thiện nam tử! Như Vương Kinh này càng
nên tôn trọng cũng như cha mẹ, lại hay diệt trừ các ác nghiệp chướng. Tuy nhiên
trong đời ác thế ngũ trược cũng chẳng phải thời nói, cũng chẳng phải thời nghe.
Bởi vì sao vậy? Chớ nên khiến kia tất cả ngoại đạo và các hữu tình đọa nơi địa
ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, chịu khổ lâu dài. Vậy nên chúng sanh tín tâm kém
thiếu, vui đắm các dục, siêng quản tục vụ, buôn bán tranh tụng, đối kinh điển
này ắt khởi bán tâm. Những chúng sanh đây sau khi mạng chết đọa vào tám địa
ngục lớn, phải chịu cực khổ.
Khi ấy trong chúng có
tám muôn người, đều từ chỗ ngồi đảnh lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: Thưa đức
Thế Tôn! Chúng con đem lòng tin sâu kinh điển, tôn trọng cúng dường, biên chép
đọc tụng, rộng truyền kẻ khác. Nếu có người ngu, không tin pháp đây vì bởi mạn pháp
cũng lại hủy báng khinh chê nơi con, con lúc bấy giờ hết thảy nhẫn chịu. Báo ân
kinh này trọn không hờn giận. Chỉ mong vì nói thù thắng kinh điển. Sở dĩ vì
sao? Vương kinh mầu này nơi đời vị lai lơi ích chúng sanh, như Phật không khác.
Nói lời ấy rồi, trở về chỗ ngồi.
Ngài Chấp Kim Cang Bồ
Tát bạch Ðức Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát làm thế nào cầu thiện
tri thức?
Phật dạy: Này thiện
nam tử! Cầu thiện tri thức phải nên thành tựu bốn pháp như vầy: Một là thường
đến thưa hỏi, hai là khởi lòng tin cần, ba là ý ưa thanh tịnh, bốn là tôn trọng
mến pháp.
Chấp Kim Cang Bồ Tát
lại bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Làm thế nào Bồ Tát an trụ A Lan Nhã?
Phật dạy: Thiện nam
tử! Thành tựu được bốn pháp thì an trụ A Lan Nhã:
Một là bỏ lìa nhà thế
tục, hai là xa lìa ác tri thức, ba là xả bỏ hết tài vật, bốn là thường nhiếp tự
tâm.
Bấy giờ Quán Tự Tại
Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Con không thấy có người được nghe kinh
này mà đọa ác thú. Bạch Thế Tôn! Kinh này có đại oai đức, khó thể nghĩ lường.
Bạch Thế Tôn! Nếu có người tạm nghe kinh này mà lễ bái khen ngợi, cung kính
cúng dường thì thu hoạch được phước vô lượng huống gì biên chép, lưu hành, thọ
trì, đọc tụng, các thứ hương hoa vì đó cúng dường, còn đối thuyết pháp sư, nên
đem những thứ y thực cúng dường. Người như thế đó được tất cả chư Phật cùng
chung hộ niệm vì họ thọ ký sẽ được sanh sang thế giới An Lạc. Pháp sư như thế
cùng Phật không khác. Phật dạy: Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Ta cũng cúng
dường Pháp sư như thế và sẽ thọ ký, được sanh An Lạc thế giới mau chứng Bồ đề.
Nếu lại có người đối chỗ chư Phật và kinh điển này, tôn trọng cung kính rồi
dùng hương thơm, hoa đẹp, hương hoa, hương bột, y phục anh lạc, các thứ âm
nhạc, tràng phan, bảo cái, lọng tàn, màn trướng mà cúng dường ấy thì người này trọn
không bao giờ hoạnh tử, không có oán giặc, binh chiến lo sợ, cũng không cha mẹ,
vợ con quyến thuộc, bằng hữu tri thức, buồn khổ lo rầu! Có mong cầu chi đều
được toại ý. Thiện nam tử! Chư Phật ra đời việc đó rất khó, được nghe kinh này
lại càng khó hơn. Nếu kinh điển này lưu hành chỗ nào, hoặc là thành ấp, tụ lạc,
lan nhã, tòng lâm, các nơi trụ xứ, phải biết chỗ ấy tức là chư Phật Thế Tôn đều
đã nhiếp thọ.
Khi bấy giờ Chấp Kim
Cang Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát vì nhân duyên
gì mà gọi tên Quán Tự Tại? Thế Tôn dạy rằng: Thường lấy mắt tịnh xem xét thế
gian, nơi có chúng sanh an ủi dụ dẫn, thành thục từ bi, lợi ích an ổn. Nếu xưng
danh ấy, có việc mong cầu đều khiến đầy đủ, bởi nhân duyên đó, tên Quán Tự Tại.
Lại bạch Phật nữa rằng: Nếu có chúng sanh chỉ xưng danh hiệu của Quán Tự Tại Bồ
Tát, mà việc mong cầu còn được đầy đủ huống gì có người cúng dường Như Lai và
kinh điển này, biên chép đọc tụng, rộng vì kẻ khác, lưu hành truyền nói, y phục
hương hoa mà vì cúng dường, người này được phước vô lượng vô biên.
Quán Tự Tại Bồ Tát
bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Kinh này có đại oai đức hay làm Phật sự. Cúi
mong Thế Tôn lại vì thương xót các chúng sanh ấy nên nói chú Ðà Ra Ni.
Phật dạy: Thiện nam
tử! Có Ðà Ra Ni gọi rằng Thắng Diệu. Ta lúc xưa kia còn làm Bồ Tát, nơi Thắng
Diệu thế giới chỗ Phật Diệu Âm, cùng các đại chúng đồng khen Thần chú Ðà Ra Ni
này, đã thọ được rồi chứng pháp Thập Ðịa Vô Lượng chúng sanh thảy đều đồng
chứng Vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ trong hội các
chúng Bồ Tát đều đứng cả dậy mà bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Cúi mong từ
bi thương xót lân mẫn, hết thảy chúng con mà nói Thần chú Ðà Ra Ni ấy.
Bấy giờ Thế Tôn dùng
tiếng Phạn âm liền nói chú rằng:
“Ðát Ðiệt Tha, Thệ Dã Thệ Dã, Thệ Da Phược Ha,
Khê Phược Ha, Thệ Dã Phược Ha, Hốt Lỗ Hốt Lỗ Bát Ðầu Ma, Bệ A Bà Ma Phạm Mê Tát
Ra Tát Rị Nê, Ðịa Lỵ Ðịa Lỵ, Ðịa Ra Ðịa Lỵ Ðề Bà Ðả Bát Lợi Ba Rị Nê, Du Ðà Ốt
Ða, Lạt Nĩ Bát Ra, Chước Yết Ra Nĩ Bà, Lạt Nĩ Bô, Lạt Dã Bà Già Phạm.
Ngã đệ tử tên …(tự
xưng tên mình) do Phật gia hộ, tất cả sở cầu, nguyện mong viên mãn. hết thảy
tội nghiệp đều được tiêu trừ TÓA HA.”
Phật dạy: Thiện nam
tử! Thắng Diệu Ðà Ra Ni chú này, hay trừ tất cả tội chướng, hay bẽ gãy tất cả
tha quân, vĩnh viễn không đói khát, tật dịch tai nạn, các việc bịnh khổ. Thường
được giàu có, kho lẫm dẫy đầy, tăng ích thọ mạng. Ðà Ra Ni chú này là chư Phật
Mẫu. Nu có kẻ trai lành và người gái tín nào tín tâm đảnh lễ, cung kính cúng
dường, biên chép đọc tụng, thọ trì kinh chú, còn lại cúng dường pháp sư trì
kinh thì người đó nghiệp chướng đều được tiêu diệt, không gặp hoạnh tử, nơi
trong hiện thân thường được hoan hỷ khoái lạc. Cha mẹ vợ con bằng hữu quyến
thuộc thảy được an ổn, có việc mong cầu đều được toại ý. Chấp Kim Cang Bồ Tát
lại bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Con cũng đem lòng cung kính trì dịch kinh
điển ấy. Nếu lại có người đem hương hoa mầu nhiệm và các đồ ăn uống cúng dường
pháp sư và kinh điển này, con cũng tùy hỷ đồng tâm cúng dường kinh ấy. Những
người nhơn dân và vị quốc chủ tại quốc gia kia con đều ủng hộ khiến khỏi suy
hoạn khổ não, mong cầu điều chi thì được toại nguyện. Bạch đức Thế Tôn! Con nay
khởi lòng phát tâm dõng mãnh, vì Quốc chủ kia và người tín thọ, cũng vì tuyên
nói chú Ðà Ra Ni để mà ủng hộ. Phật dạy, thiện nam tử! Ông hay vì các chúng sanh
làm điều lợi ích an vui mà nói Ðà Ra Ni nên ta tùy hỷ. Lúc ấy Chấp Kim Cang Bồ
Tát nhờ Phật thần lực đã gia trì nên nói Thần chú Ðà Ra Ni rằng:
“Nam ma tát bà bột đà, đát tha yết đa nẫm. Nam
ma a di đa bà dã, đát tha yết đa dã. Nam ma tát bà bồ đề tát đõa nẫm. Nam ma
tát bà mộ hiết địa kê tệ. Ðát điệt tha hổ hô mê, hổ hô mê, mạt để mộ ha mạt để,
bạt chiết la mạt để, điệt lật trà bạt chiết la mạt để, đát tha yết đa, a nô bát
lị bà lợi đế, tát ra tát ra, a dũ mục xí, bậc lệ cu trí, tỳ cu đa mục xí, ngật
lật bế, ngật lật ba, lộc kế, tát đế a nô táp mạt ra bạt già phạm bạt chiết ra
ba nĩ tát bà ba bạt yết ma thật dã.
Ngã đệ tử tên … (tự
xưng tên mình) sở hữu nguyện cầu, giai đắc toại ý, đương giữ ngã nguyện, dĩ
Phật Ðà thật ngữ, Bồ Tát thật ngữ, Thanh Văn thật ngữ TÓA HA.”
Bạch đức Thế Tôn! Nếu
lại có người muốn vào địa vị Bồ Tát, nguyện thấy các đức Như Lai, muốn sanh về
cõi tịnh độ, mong cầu phú quí, tài bảo giàu có, sống lâu không bịnh, nên trì
kinh điển vi diệu này cho đến pháp sư, viết chép đọc tụng, hương hoa âm nhạc, y
phục ẩm thực, tràng phan, bảo cái mà làm lễ cúng dường. Người như vậy con sẽ
theo ủng hộ làm cho chỗ mong cầu nguyện mãn, thường khởi lòng thương mến coi
như con một.
Bạch Thế Tôn! Nếu lại
có người bẩm tánh si độn muốn cầu thông minh và hộ cõi nước khiến không tật
dịch. Phải nên đối với tháng bạch nguyệt, ngày mùng tám bắt đầu khởi công tu
niệm một ngày đoạn thực niệm tụng chú này. Mười lăm ngày cho đến hết tháng.
Trong thời gian ấy chỉ ăn ba thứ bạch thực, như cơm (bánh), sữa, bơ. Thanh tịnh
tắm rửa sạch sẽ, tụng Thần chú này mãn mười vạn biến. Nếu có sức lực tụng mãn
ba mươi vạn biến, thường nên tùy sức cúng dường Tam-Bảo. Hãy khiến một vị họa
sư thọ bát quan trai giới. Thân y tinh khiết mà họa tượng kia. Nơi giữa an bày
tượng Phật Thích Ca, ngồi trên tòa sư tử, đang thuyết pháp nghi. Bên phía hữu
an bày tượng Quán Tự Tại Bồ Tát, đồ phục sức trang nghiêm đầy đủ, đứng trên hoa
sen, thân có bốn tay. Tay trên bên hữu cầm bổn Phạn kinh, tay dưới cầm tràng
chuỗi, tay trên bên tả cầm hoa sen trắng, tay dưới cầm bình Quân trì. Bên phía
tả an bày Chấp Kim Cang thần, tay hữu cầm Kim Cang xử, tay tả đưa lên nương cầm
đầu xử. Nét mặt vui vẻ, anh lạc nghiêm thân. Nơi bốn bên an để Hộ Thế Tứ Thiên
Vương. Những tôn tượng này đều đeo dây lụa, đầy Xá lợi Phật, qua lại nơi thân
như trái quai lạc.
Lại nữa, ở trước
tượng có thể làm một cái Ðàn, (Mạn Ðà La) tùy theo lớn nhỏ, bốn mặt mở bốn cửa,
lấy ngưu phẩn thoa đắp (phân trâu trắng thơm ở tuyết sơn) các thứ hương hoa bày
khắp trên ấy, lư hương phải đủ năm cái, để thiêu riêng năm thứ hương nghĩa là:
Trầm hương, đàn hương, tô hạp hương, an tức hương, huân lục hương. Ở bốn cửa
đàn, mỗi cửa an hai bình, hoặc đầy nước tịnh thủy, hoặc lại đầy sữa, đèn thắp
mười sáu chén tùy chỗ mà an trí. Treo tràng phan, bảo cái và các âm nhạc, nước
hương thơm rưới sái nơi đất, hương hoa đồ ăn uống, mà làm lễ cúng dường. Ở nơi
đàn tứ giác, khiến người đọc tụng kinh này, thường thường tắm rửa, mặc y thanh
tịnh, ăn ba món bạch thực. Người trì cầu nguyện ấy, lấy hoa để trong tay, hãy
chấp tay lại trình bày việc mình sở cầu, khởi tâm từ niệm, tùy lòng phát
nguyện, lấy hoa ấy tán rải cúng dường Phật, có việc sở nguyện gì đều được tùng
tâm. Ở trong thời gian bảy ngày, con sẽ vì kia hiện tướng trạng thù thắng,
khiến thấy hảo mộng, cùng chung nói chuyện, người kia tâm mong cầu đều được
viên mãn, trừ lòng nghi không tin. Phật dạy: Hay thay! Hay thay! Ông hay thương
xót hữu tình mà nói chú pháp này.
Lúc ấy Quán Tự Tại Bồ
Tát bảo chấp Kim Cang Bồ Tát rằng: Kinh điển mầu nhiệm này khó có thể được gặp
gỡ chúng sanh bạc phước ở trong quốc gia kia, tuy có kinh điển này mà không
được thấy, cũng lại không thể biên chép đọc tụng, nghe học thọ trì. Bởi vì sao
vậy? Do có ác ma làm sự chướng ngại. Lại nữa thiện nam tử! Nếu có chúng sanh
khi biên chép đọc tụng kinh điển này có bốn thứ ác ma nó làm não loạn. Những gì
là bốn thứ:
1. Là sanh lòng biếng
nhác.
2. Là khởi tâm không
tin.
3. Là đối chỗ của pháp
sư không sanh tôn trọng.
4. Là tâm không thường
định.
Người này liền
biết đó là ma sự.
Lại nữa có bốn
nghiệp ác ma. Gì là bốn:
1. Là xa lìa thiện tri
thức.
2. Là không như lý tác
ý.
(Khởi tâm
không hợp chân lý)
3. Là không hiểu rõ văn
tự.
4. Là chỉ thấy hiện tại,
nói không vị lai, tạo các ác nghiệp, lòng không lo sợ, nói không nhân quả.
Ta nói kẻ đó còn làm
những điều phi pháp, ưa quản tục vụ, tham nhiễm ràng buộc, chúng sanh như thế
sẽ đọa địa ngục, trải vô lượng kiếp, chịu đại khổ não.
Lại nữa có bốn thứ
ma. Gì là bốn:
1. Là tham đắm tiền tài
vật chất.
2. Là gần gũi bạn ác.
3. Là chướng ngại pháp
sư.
4. Là đối pháp sư thuyết
pháp hay tìm vạch lỗi lầm.
Những chúng sanh ấy
do nghiệp ác này cho nên sẽ chịu nghèo cùng khốn khổ. Không thấy bạnh lành, xa
lìa tôn sư, khởi tướng tà kiến, nói không nhân quả. Phải đọa địa ngục chịu
nhiều kịch khổ.
Phật dạy: Này đại
chúng, ta nay trở lại ba lần, nói thật mà dạy các ông rằng, chớ nên buông lung
coi nhẹ kinh điển này, phải một lòng kính thọ đừng sanh phỉ báng.
Khi ấy đức Thế Tôn
muốn trùng tuyên lại nghĩa trên mà nói lời tụng rằng:
Ta từng tuyên nói các Vương kinh,
Khiến các chúng sanh đắc Chánh giác
Nay đây lại nói chơn diệu điển,
Ông nghe cung kính khéo tu hành.
Về sau khỏi chịu cực thống khổ,
Ðọa nơi địa ngục trải nhiều kiếp.
Hãy đối kinh này sanh tín tâm,
Ðời đời thường làm Chơn tử ta
Còn lại cúng dường kinh điển này
Sẽ được sanh sang về cõi Tịnh.
Hiện không La Sát quỷ thần khi,
Cũng không các ác đến nhiễm xâm.
Nếu Vương kinh này ở chỗ nào,
Không các tai ách hay hại người.
Cầu nguyện việc chi thảy tùy tâm,
An vui mau đến đạo Bồ đề.
Khi ấy Tứ Thiên Vương
nghe tụng này rồi rơi lệ buồn khóc, khắp thân run rẩy, lễ hai chân Phật, bạch
thưa Thế Tôn: Chúng con Tứ Thiên Vương, nếu thấy pháp sư thủ trì kinh này, con
sẽ cúng dường khi họ thuyết pháp, đến các người nghe đều được phò hộ. Nếu có
quốc vương đối kinh điển này biên chép đọc tụng, thọ trì cúng dường, con sẽ ủng
hộ bảo vệ cho đến nhơn dân trong nước đó, cơi như con một, cũng đem y phục anh
lạc mà cung cấp, khiến cõi nước kia giàu có tài bảo, không còn kém thiếu, nếu khi
chiến trận thường khiến đắc thắng. Nghĩ báo ân Phật, con không biếng nhác. Bạch
đức Thế Tôn! Nếu lại có người nghe kinh điển này không sanh tín tâm cúng dường
pháp sư. Con đối với người ấy không có phương tiện gì mà cứu thoát họ, chỉ sanh
lo buồn!
Phật dạy: Lành thay!
Lành thay! Ông hộ Chánh pháp hay sanh tâm ân trọng như thế.
Khi bấy giờ, Trì Quốc
Thiên Vương Càn Thát Bà chủ, từ tòa đứng dậy đảnh lễ chân Phật, chấp tay cung
kính mà bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Về đời sau này có các chúng sanh thường
làm không lành, không tin Như Lai, đối kinh điển này không thể cúng dường viết
chép đọc tụng, cũng không làm điều bố thí, không tin bố thí là hiện đời được
quả báo vui. Lòng đại từ của đức Thế Tôn vì những người không tin như vậy mà
nói kinh điển khiến cho họ thọ hành. Phật dạy: Thiện nam tử! Có hai việc khiến
các chúng sanh đọa đại địa ngục, sanh tử luân hồi: một là dâm dục, hai là giận
hờn. Lại có bốn pháp khiến các chúng sanh được sanh trong cõi trời, người.
Những gì là bốn:
1. Là các chúng sanh tâm
hành bình đẳng.
2. Là đối ngôi Tam-Bảo
sanh tâm ân trọng.
3. Là có của riêng mình
đều đem bố thí.
4. Là kiên trì giữ gìn
phạm hạnh (hạnh tốt) đừng cho khuyết phạm.
Bấy giờ đức
Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói bài tụng rằng:
Bố thí hay có đại oai thần,
Nơi ba ác thú vớt chúng khổ.
Chúng sanh bị hoặc xan, tham, si,
Các thứ nhiễm dục não lòng kia
Nghe kinh điển này không kính thọ,
Ðối trong Phật pháp không tin thí.
Xả thân thường đọa nơi ác thú,
Phải chịu vô biên đại kịch khổ.
Ích lợi Quốc chủ và nhân dân,
Ta nói kinh này đủ oai đức.
Khiến lìa bịnh dữ các tà não,
Không bị dược xoa thảy làm hại.
Nếu có tin kinh người biên chép,
Cúng dường hay sanh vô lượng phước
Hết thảy chúng sanh trí như Phật,
Nhiều kiếp nói phước không thể hết.
Nếu có kinh nơi nhiều kiếp số,
Cúng dường tất cả chư Bồ Tát.
Không bằng đối Vương kinh mầu này,
Tạm thời lòng tin viết một chữ.
Công đức trước trì so phước này,
Ðó là ức phần chẳng bằng một.
Vậy nên người trí đối kinh này,
Một lòng phụng hành không biếng trễ.
Bấy giờ Bồ Tát Quán
Tự Tại bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Ðời sau này nếu có kẻ trai lành và
người gái tín nào đối với kinh điển này đem lòng tin kính thâm sâu, dùng hương
thơm hoa đẹp và các đồ ăn uống, y phục, ngọa cụ, hết thảy đem cúng dường cho vị
sư thuyết pháp cho đến người biên chép đọc tụng kinh này thì người ấy hiện đời
quyết chắc sẽ thu hoạch được vô lượng phước lợi, thân họ được nhiêu ích lìa các
bịnh khổ. Trong sáu căn như nhãn v.v… được thanh tịnh không bịnh hoạn, không
gặp nạn ách nước, lửa, đói khát, cũng không bị độc dữ trúng thương, tất cả hữu
tình thấy đều vui mừng, khi mạng gần chết, thấy Ðức Phật Bất Ðộng đến an ủi mà
bảo rằng: Này thiện nam tử! Ông tu căn lành phước kia vô luợng, trong mười
phương tịnh độ Cực Lạc thế giới hãy tùy ý thọ sanh.
Lúc bấy giờ Quán Tự
Tại Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Lành thay! Lành thay! Ðức Thế Tôn
vì muốn thương xót các chúng sanh trong Nam Thiệm Bộ Châu cho nên Ngài nói kinh
điển này. Ðời đương lai rộng làm Phật sự lợi ích chúng sanh. Ðại Minh chú này
hay trừ tất cả cực trọng nghiệp chướng.
Phật dạy: Thiện nam
tử! Ác nghiệp chúng sanh tội kia sâu nặng, không nghe kinh này, không thể biên
chép, thọ trì đọc tụng. Nếu có chúng sanh được nghe kinh điển này chép viết thọ
trì, tôn trọng cúng dường, phải biết đó là sức oai thần của Phật. Nếu lại có
người đối với kinh điển này, hay vì người khác mà nói chừng một chữ, hãy cúng
dường người đó như Phật không khác. Bởi vì sao? Thiện nam tử! Kinh này là quá
khứ bảy ngàn chư Phật đã tuyên nói, tất cả Bồ Tát thảy đều tùy hỷ, chư Thiên
ủng hộ là Bồ Tát mẫu.
Khi ấy, Chấp Kim Cang
Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Kinh điển này nơi đời vị lai sẽ ở chỗ
nào lưu thông đầy đủ?
Phật dạy: Thiện nam
tử! Kinh đây sẽ ở trong cung Hải Long Vương và ba mươi ba cõi trời đều có đầy
đủ. Trong Nam Thiệm Bộ Châu chỉ có phần ít tùy chỗ lưu thông. Phật dậy: Thiện
nam tử! Ta nay đem kinh điển này giao phó (phú chúc) cho ông, phải nên thọ trì,
cúng dường ủng hộ như Phật không khác. Tại chỗ lưu thông chớ khiến đoạn dứt,
lợi ích chúng sanh rộng làm Phật sự.
Chấp Kim Cang Bồ Tát
bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con nay thọ Phật giáo sắc lưu bố kinh này, cũng
lại ủng hộ trì kinh pháp sư.
Phật dạy: Hay thay!
Hay thay! Thiện nam tử! Ðây chính thật là ông đã làm Phật sự đó.
Lại nữa, Quán Tự Tại
Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Con nay chí thành kính lễ, vi diệu
kinh điển như vậy, đối với kẻ thuyết pháp và người biên chép thảy đều cúng
dường. Bạch Thế Tôn! Nếu có nước bạc phước vô đạo quân vương, dẫu có kinh này
không thể cúng dường, cho đến pháp sư, kinh này ẩn mất. Nước kia sẽ có tai nạn
ác sự, họa biến hiện tiền. Như vậy phải biết Chánh pháp muốn diệt. Người trí
thấy rồi hãy đem tâm ân trọng cúng dường.
Phật dạy: Lành thay!
Lành thay! Thiện nam tử! Như lời ông đã nói, giả sử có người mãn đủ ngàn tuổi,
dùng đủ thú vui, cúng dường chư đại Bồ Tát và Thanh Văn chúng, số kia như cát
sông Hằng, lại lấy của thất bảo đồng như số cát ấy mà làm việc bố thí, sau rồi
tự xả bỏ thân. Thiện nam tử! Như phước đó so với phước cúng dường trì
kinh cho đến một câu, một chữ, trăm ngàn vạn phần kia không bằng một, huống gì
đem hết khả năng biên chép đọc tụng. Vì sao thế? Bởi kinh chú này có đại oai
lực, nếu thọ trì ấy, rõ thân không bền chắc như huyễn hóa, như chiêm bao, biết
pháp vô ngã, mong nhờ Phật thọ ký đắc được đại Bồ đề.
Khi ấy đại chúng, tất
cả Bồ Tát và các thiên, long, dược xoa, a tô la, yết lạc trà, người và phi nhơn
v.v… đều cùng một lòng, đồng thinh khen Phật: Hay thay! Hay thay! Ðây là lần
thứ hai chuyển đại pháp luân. Chúng con thảy đều cung kính cúng dường. Kinh này
ở quốc độ thành ấp nào cũng sẽ ủng hộ và người thuyết pháp ấy, nếu có chúng
sanh hủy báng kinh này, thì hiện thân đắc vô lượng trọng tội, sau khi mạng chết
sẽ đọa vào địa ngục. Con bỏ người ấy không còn ủng hộ.
Phật dạy: Thiện nam
tử! Ta nay cũng đem kinh điển này phó chúc cho ông, đời sau này tuyên dương
rộng rãi, chớ cho đoạn dứt. Kinh này có lợi ích lớn, an vui trời, người, ruộng
phước thêm lớn, lìa ba ác thú. Chớ sanh nghi hoặc, thường khuyến thọ trì. Khi
Phật nói kinh này, sáu vạn bốn ngàn người đều được Vô sanh Pháp nhẫn.
Quán Tự Tại Bồ Tát
lại bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Nếu có chúng sanh tín tâm biên chép, thọ
trì, đọc tụng, cúng dường kinh này thì người ấy khi mạng chết sẽ sanh về chỗ
nào? Ðược bao nhiêu phước?
Phật dạy: Này thiện
nam tử! Ông có thể hỏi việc phước thù thắng ấy. Người này mạng chết xa lìa ác
thú thường sanh Tịnh độ. Giả sử có người tu hành Bồ Tát hạnh, bỏ đầu, mắt, tay,
chân và vợ con, cũng lại không bằng người trì kinh điển này. Kinh này ở chỗ nào
địa phương nào chính đó là tháp, đều nên cúng dường.
Quán Tự Tại Bồ Tát
lại bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Về đời sau người trì kinh này, con vì họ
thọ ký, tiêu diệt ngũ nghịch cực trọng tội chướng, trong chín vạn kiếp thường
được giàu sang, nơi tám vạn kiếp làm Chuyển Luân Thánh vương.
Phật dạy: Như vậy!
Như vậy! Thiện nam tử! Ta nhớ thời quá khứ vô lượng kiếp, có đức Phật Thế Tôn
gọi là Vô Biên Công Ðức Pháp Trí Thanh Tịnh Tinh Tú Vương Như Lai. Ta khi bấy
giờ làm Bà la môn, nơi chỗ Ðức Phật kia được nghe kinh này, thọ trì đọc tụng
đắc pháp Nhãn tịnh. Những kẻ đồng nghe từ đó về sau không đọa ác thú, lần lượt
sẽ được Vô thượng Bồ đề. Thiện nam tử! Ta trong vô lượng nhiều đại kiếp, vì
pháp này mà bỏ các tài bảo, đầu, mắt, tay, chân, vợ con, thành, ấp, tu tịnh
phạm hạnh không lòng hối não. Các ông cũng nên như vậy tu tập.
Khi ấy đại chúng nghe
nói việc khổ hạnh quá khứ, thảy đều rơi lệ buồn khóc, mà bạch Phật rằng: Hy hữu
Thế Tôn! Ðời sau đây có ai hay thọ trì, đọc tụng, cúng dường kinh điển này thì
được phước vô lượng. Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di v.v… đối
với vương kinh này mà không hay đọc tụng, Ðà Ra Ni chú cũng không chịu thọ trì,
lại cũng không siêng năng tu lục độ, nơi kẻ khổ não, không lòng lân mẫn.
Người như thế đó nơi vô lượng kiếp đọa trong biển sanh tử, chịu nhiều khổ não.
Thiện nam tử! Thí như người phụ nhơn, thân mạng chửa nặng cho đến mười tháng,
khi ấy phụ nhơn lại thêm bịnh khổ, thân thể chi tiết đau nhức dường như dao
cắt, không thể uống ăn. Khi muốn sanh nở chịu đại kịch khổ, mà nghĩ như vầy:
Nếu tôi qua khỏi nạn này, vĩnh viễn không còn dâm dục, thường tu phạm hạnh. Sau
mới vừa sanh lại làm ác pháp, bèn quên khi trước khổ hoạn thống thiết. Thiện
nam tử! Ðời sau này chúng sanh ngu si cũng lại như thế! Không tin kinh này,
cũng không đọc tụng, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tu định, tu huệ,
tham đắm dục tình, ưa việc thế gian, không tu nhơn hạnh ba nghiệp thanh tịnh.
Những chúng sanh này đọa địa ngục rồi, sanh lòng hối hận. Như người phụ nhơn
thân mang dạ chửa, lại gặp cực khổ, chịu khổ não rồi, từ địa ngục ra đã được
thân người, ham đắm ngũ dục. Ðịa ngục khổ kia không hay ghi nhớ, lại tạo nghiệp
dữ.
Thiện nam tử! Thí như
có người ham ưa uống rượu, uống rồi hôn mê, không biết xứ nhà, Phật Pháp Tăng
bảo, cha mẹ vợ con, từng không nhớ nghĩ, không lòng cung kính, do rượu hôn mê,
sa vào những chỗ thi lâm hiểm nạn cũng không lòng lo lắng sợ sệt, lại nghĩ như
vầy: Ðâu có loại trời, rồng, dược xoa hay làm ta sợ. Người hay như thế, tuy nơi
khi ấy thân mình nằm lăn trên gai bén nhọn lại tưởng là vui. Sau khi tỉnh rượu
ôm lòng hối tiếc, tự biết phi pháp , nói ta từ nay cho đến khi chết không dám
uống rượu làm các lỗi lầm. Sau gặp ác duyên trở lại tham uống đồng như trước
kia tạo các tội lỗi. Ngu si hữu tình cũng lại như thế! Do tham nhiễm ấy chứa
nhiều tiền của, làm điều kiêu mạn buông lung phóng dật, không nhớ nghĩ Tam-Bảo,
trái bỏ tôn thân, cung không tu hành thí giới nhẫn nhục v.v… không muốn mong
cầu cõi Phật tịnh độ. Những hữu tình này thường ở trong biển khổ sanh tử không
có kỳ hẹn, đọa trong địa ngục thọ khổ lâu dài, dẫu được làm người khi ở bào
thai chịu các khổ não, thân bị bức bách liền lại nghĩ rằng: Ta nếu được khởi
các ách nạn này, lại không làm tội để chịu cực khổ, thường tu nghiệp lành,
nguyện sanh tịnh độ, kia được thân người do tánh ngu si, làm các tội nghiệp,
trở đọa ác đạo. Vậy nên các ông phải khéo tu hành chớ có buông lung, đây là lời
tóm lược của ta.
Khi ấy, Cù Thọ A Nan
Ðà bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Kinh này lại có tên gì? Làm thế nào thọ trì?
Phật dạy: Kinh này
gồm có năm tên:
1. Là tên Cứu tất cả
chúng sanh khổ ách.
2. Là tên Bồ Tát chơn
thật đã hỏi.
3. Là tên Thần thông
Trang Nghiêm Vương.
4. Là tên Hay thành chư
Phật Chánh Giác.
5. Là tên Tất cả pháp
Công Ðức Trang Nghiêm Vương.
Phật nói kinh
này rồi, các đại Bồ Tát và chúng Thanh Văn, thiên, long, dược xoa, a tô la, càn
thát bà, người và phi nhân thảy đều đại vui mừng tín thọ phụng hành.
VII
NAM MÔ TRANG NGHIÊM VƯƠNG ÐÀ RA NI CHÚ KINH
HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ
TÁT MA HA TÁT (3 LẦN)
TRANG NGHIÊM VƯƠNG ÐÀ RA NI CHÚ
-Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nghĩa Tịnh
phụng chiếu dịch Phạn ra Hán.
-Sa Môn Thích Viên Ðức dịch thành
Việt văn.
Như thật tôi nghe,
một thời Ðức Bạt Già Phạm ở tại núi Bố Ðạt Lạt Ca. Vì các trời người tất cả đại
chúng diễn nói pháp yếu, xem khắp mười phương dùng diệu âm thinh dạy Quán Tự
Tại Bồ Tát và Diệu Cát Tường Bồ Tát rằng: Này thiện nam tử! Có kinh tên là
“Nhứt Thiết Như Lai Sở Hộ Quán Sát Chúng Sanh Thị Hiện Phật Sát Trang Nghiêm
Vương Ðà Ra Ni”. Ta lúc xưa kia khi mới phát tâm ở chỗ Hoa Quang Hiển Hiện Như
Lai, cũng là chín mươi câu chi chúng sanh (90 trăm ức) một phen nghe được pháp mầu
này đây thảy đều đắc phần trí huệ Như Lai, được nhờ thọ ký làm Phật trong các
cõi Phật sát. Ta trong số đó được Phật thọ ký. Này thiện nam tử! Ta lấy Phật
nhãn xem thấy quá khứ ba vạn Như Lai, vì các chúng sanh nói pháp yếu này. Ông
Quán Tự Tại và Diệu Cát Tường ở nơi trong thời thuyết pháp khi ấy cũng đều là
bậc lãnh đạo Thượng Thủ.
Bấy giờ Thế Tôn nói
lời ấy rồi, hiện tiền đại chúng Bồ Tát, Thanh Văn, thính giả đến nghe đều phát
lòng tin cúng dưòng Ðức Phật.
Bấy giờ vô lượng trăm
ngàn Câu chi na khố đa chúng sanh đều được thọ ký cũng đắc Bồ Tát Thắng Diệu
Ðẳng Trì, bệnh khổ thảy trừ, Cái (1), Triền (2) tiêu diệt, sở nguyện đầy đủ,
căn lành thành tựu, dung nhan đoan chánh tài bảo giàu có. Quốc Vương, đại thần,
các loài chúng sanh thảy đều vui mừng! Niệm huệ thần thông đều được đầy
đủ, đối Phật Pháp Tăng được tín bất hoại, thọ mạng sắc lực có đại oai thế,
không có các khổ thương xa lìa ghét phải gặp gỡ.
Nếu có trai lành và
người gái tín hay đối kinh này, năm vóc sát đất, sanh lòng hy hữu, lấy các
hương hoa chuỗi ngọc phan cái, cung kính cúng dường, qui y khen ngợi đọc tụng
thọ trì.
Nếu mình viết chép
hoặc bảo người chép, vô lượng công đức đều được thành tựu, thấy kẻ thọ trì sanh
lòng kính tín thì hiện thân này các đức đầy đủ, đều đắc Bồ Tát Thắng Diệu Ðẳng
Trì, hơi miệng thường ra mùi thơm chiên đàn, tròng mắt sáng tịnh như lá sen
xanh, ở trong ngày đêm thấy Phật hình tượng và đại Bồ Tát. Nếu có chướng tội,
nghiệp ngũ vô gián, thảy đều tiêu diệt, chư Thiên vệ hộ, khi mạng gần chung
thấy Phật, Bồ Tát, tâm không tán loạn, quyết được vãng sanh về cõi Cực Lạc. Ta
cùng người đó thọ ký làm Phật, kia thấy thân ta cung kính cúng dường, đối diện
Bồ đề tâm không nghi hoặc. Nếu lại có người đối pháp môn này đọc tụng thọ trì,
cúng dường cung kính, nếu tự mình chép hoặc bảo người viết cho đến được nghe
tên kinh điển này, phải biết người đó tức là Bồ Tát nên cần cúng dường. Nếu lại
người này do nghiệp ác trước, tài mạng sắc lực trong ngoài tư sanh thảy đều
ngắn ít, các việc mong cầu không được toại lòng, thân ái chia lìa, cõi nước
hoang tàn, vương giặc nạn suy. Do sức kinh này hiện thân thọ nhẹ, hoặc tạm đau
đầu, hoặc được áo xấu, hoặc là cơm dở, hoặc gặp mắng chửi, và các hủy nhục thì
nghiệp chướng kia thảy đều tiêu diệt. Này thiện nam tử! Kia người trì kinh nên
sanh niệm này: Ta xưa lưu chuyển trong biển sanh tử, đối các hữu tình làm nhiều
ác tội, ngày đêm tăng trưởng tạo nghiệp không lành, nay thời rõ biết, không dám
che giấu, phát lộ nguồn tội, thành tâm sám hối. Ðối Phật Pháp Tăng lòng tin bất
hoại.
Nếu lại có người từng
ở trong Phật Pháp, Tăng Bảo, Ðộc Giác, Thanh Văn, cha mẹ, sư trưởng, làm các
nghiệp ác, quả báo áo cơm đều phải thiết hụt. Do sức kinh này nghiệp ấy trừ
diệt, cơm áo đầy đủ.
Nếu lại người kia, có
nghiệp thọ khổ, chốn Nại Lạc Ca (địa ngục) thương khổ xa lìa, sống đời mù đui,
không căn hai căn, nghiệp báo chín muồi, cũng đều tiêu diệt.
Lại nữa, người kia do
sức nghiệp ác, đời trước tật đố, sân si hờn giận, sẽ đọa vào cõi Diêm Ma Vương
giới, súc sanh ngạ quỷ trong các ác thú. Do sức kinh này đã có ác nghiệp đều
được trừ diệt, hết thảy phước đức đều được tăng trưởng.
Này thiện nam tử! Nếu
nơi chỗ nào có pháp môn này, thì những người kia thường nhờ kinh này mà được
ủng hộ, công đức đầy đủ, sở cầu viên mãn, thường thọ giàu vui nghiệp ác tiêu
trừ, không có hoạnh tử và các ác mộng, bịnh khổ chẳng có, đấu chiến thường
thắng, mạng thọ sống lâu, sắc lực đầy đủ có đại oai thế. Tất cả thế gian người
và thiên, long các quỷ thần thảy đều tùy ý chuyển, không gặp ác độc tai hoạn
nước lửa, cho đến do nhờ sức trì Thần chú, thường được chư Phật trao tay thọ
ký.
Nếu kẻ trai lành và
người gái tín được nghe Thần chú như thế mà lại thọ trì đọc tụng hoặc tự viết
chép hoặc dạy người chép, cung kính cúng dường, thì kẻ trai lành và người gái
tín đều được công đức như trước đã nói.
Bấy giờ Thế Tôn
nói lời ấy rồi quả đất lớn này bỗng nhiên rung chuyển sáu lần chấn động. Các
đại chúng đây đem diệu hương hoa, hương thoa hoa tràng, tàn lọng, y phục,
thù thắng nhiệm mầu dâng lên Thế Tôn, đồng thinh xướng rằng: Lành thay! Lành thay!
Chúng con làm sao nghe được Thần chú, Như Lai tuyên nói. Lúc ấy Thế Tôn liền
nói chú rằng:
“Nam Mô tát bà đát
tha yết đa nẫm, đát điệt tha, bột đệ, tô bột đệ, lô ca Tỳ Lô kế, lô ca phạt để
hiết lang đế, tát đỏa a phạt lô hiết nê, tát bà, đát tha yết đa a đề sắt sĩ đế,
tát bà a xa bát rị bô rị nê, tu đinh đạt lệ, nại la đề bà bố thị đế, đát tha
yết đa thận nhã na đạt đệ, đát tha yết đa a đề sắc trá nê noa, tát bà lô ca tốc
xí bà bạt đổ, tát bà hiết ma bát rị xoa tà giả, ma ma a mộc hiết tả. Ngã đệ
tử … (xưng tên) tát bà tát đỏa nan giả, hạt lạt xoa bà bạt đổ, đát tha
kiết đa a đề sắc trá nê noa, tóa ha.” (108 lần)
Này thiện nam tử!
Thần chú này đây ba vạn Như Lai đồng tuyên nói và cùng gia hộ. Ta nay cũng lại
nói Thần chú này vì muốn lợi ích tất cả hữu tình khiến được an vui thường làm
ủng hộ, trừ dứt bịnh khổ sanh các nước Phật.
Nếu lại có người nghĩ
như thế này, như Phật đã nói công đức Thần chú. Ta nay làm sao để mà thành tựu,
tức mỗi sáng chiều tắm rửa sạch sẽ, đối với hết thảy hữu tình chúng sanh khởi
đại từ bi, phát lòng lân mẫn, trừ bỏ tật đố, kiêu mạn, giận hờn, một lòng cung
kính đối trước tượng Phật, hương quý hoa thơm, đồ ăn thức uống rộng bày cúng
dường, lễ mười phương Phật, tâm cầu sở nguyện, tụng Thần chú này đủ trăm lẻ tám
biến (108) nơi mỗi mỗi biến, chú mỗi cái hoa, lấy mỗi mỗi hoa cúng dường nơi
Phật. Người này tức liền tùy sở nguyện cầu thảy đều như ý, cũng ở trong mộng
thấy được chư Phật. Khi mạng gần chung thấy Phật, Bồ Tát, sau khi bỏ thân quyết
được vãng sanh Cực Lạc thế giới, thọ mạng sắc lực thảy đều đầy đủ. Tất cả oán
cừu đều sanh hoan hỷ.
Khi nói chú này, sáu
vạn hữu tình hết thảy đều được vô sanh pháp nhẫn, vĩnh trừ các chướng, sở
nguyện đầy đủ.
Khi đức Thế Tôn nói
kinh này rồi, Quán Tự Tại Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, hết thảy đại chúng nghe
Phật Ngài nói hoan hỷ phụng hành.
(1) CÁI: Năm món Cái:
1. Tham
dục: Lòng tham vô đáy.
2. Sân
nhuế: Giận hờn.
3. Thùy
miên: Tâm hôn trầm không làm chi được.
4. Trạo
hối: Trong tâm có sự ăn năn xao động.
5. Nghi:
Ðối với việc gì cũng mờ ám, không biện biệt được chơn
ngụy, tâm dụ dự không quyết đoán.
(2) TRIỀN: Mười Triền:
1. Vô
tàm: Có tội lỗi mà không biết hổ.
2. Vô
quý: Có tội lỗi người khác biết được mà không thẹn.
3. Tật:
Thấy người hiền đức, giàu sang sanh lòng ghen ghét.
4. Xan:
Keo bẩn không bố thí.
5. Hối:
Ăn mặn những tội lỗi đã làm.
6. Thùy
miên: Hôn mê không tỉnh giác được thân tâm.
7. Ðiệu
cử: Tâm niệm xao động.
8. Hôn
trầm: Thần thức hôn mê không rõ biết chi cả.
9. Sân
hận: Ðối trước nghịch cảnh hay sinh lòng sân hận.
10. Phú: Che giấu tội ác.
VIII
TRÌ CÚ THẦN CHÚ
Tôi nghe như vầy: Một
thời Ðức Phật ở tại nước Xá Vệ, rừng cây Kỳ Ðà, vườn Cấp Cô Ðộc, cùng với
các vị đại Tỳ Khưu chúng, gồm có 1250 người, còn Bồ Tát thì hơn muôn vị.
Bây giờ từ cõi Phật đây trải qua ức trăm ngàn cõi Phật. Có thế giới gọi Vô
Lượng Hoa, Ðức Phật kia hiệu Ngài là Ðăng Tôn Vương Như Lai Vô Sở Trước Chí
Chơn Ðẳng Chánh Giác hiện nay Ngài đang nói pháp ở đó. Phật sai hai vị Bồ Tát:
một gọi là Vô Lượng Quang Minh, hai là Ðại Quang Minh. Khi hai vị Bồ Tát đến
chỗ đức Thích Ca Văn Phật cúi đầu sát nơi chân Phật rồi lui đứng một bên mà
bạch Ðức Phật rằng: “Kính thưa Thế Tôn! Từ cõi Phật này trải qua ức trăm ngàn
nước Phật, có thế giới Vô Lượng Hoa, Phật kia hiệu là Ðăng Tôn Vương Như Lai
sai chúng con đến thăm Thế Tôn có được bình thường chăng? Các chúng được an ổn
không chi khác ư? Thiên long, quỷ thần, ngạ quỷ, nữ quỷ Cưu Hằng hoặc người và
phi nhơn, cọp beo thú dữ muốn được không não loạn, quấy rối nhân dân, vậy nên
hãy dùng Trì Cú Thần chú mà Phật kia sai chúng con đem đến đây, vì nghĩ thương
chúng sanh muốn cho họ an vui, được danh thơm lành tốt, được tiếng tăm khen
ngợi, được sức oai thần như vậy.
Xà lê ma ha, xà lê la ni, ưu khư mục khư, sa bà
đề, ma ha sa bà đề.
Phật dạy A Nan: Thọ
trì Trì Cú Thần chú chấp trì đọc tụng, gặp đời Phật rất khó, Trì Cú Thần chú
gặp được còn khó hơn. Kẻ trai lành và người gái tín nào thọ hành Trì Cú Thần
chú gặp được còn khó hơn. Kẻ trai lành và người gái tín nào thọ hành Trì Cú
Thần chú, thọ trì đọc tụng thì sẽ biết được túc mạng trong bảy đời. Người thọ
trì ấy tất cả Phù Ðà quỷ thần, người cùng phi nhơn không dám gần gũi, nhiễu
loạn, độc xà không dám chích, độc dược tự tiêu trừ, đao bén chẳng trúng thương,
vương giặc chẳng dám hại, Phạm Vương không dám giận. Trì Cú Thần chú bảy mươi
bảy ức Ðức Phật đã nói, hủy phạm người trì Thần chú đây sẽ đắc đại trọng tội.
Lại có Bồ Tát Di Lặc
hết thảy tám mươi vị, bảo Hiền giả A Nan rằng: “Tôi cũng sẽ nói Trì Cú Thần
chú, nghĩ thương chúng sanh muốn họ được an vui, được danh thơm lành, được
tiếng tăm khen ngợi, được sức oai thần như thế.
A tri hòa tri, tra khư la la, lý my hỷ ly, my
ly đề lô, lưu mi lặc.
Phật dạy A Nan: Thọ
trì Trì Cú Thần chú chấp trì đọc tụng. Gặp Phật ra đời rất khó. Trì Cú Thần chú
đọc tụng thọ trì sẽ biết được túc mạng trong mười bốn đời. Người thọ trì ấy tất
Phù Ðà quỷ thần, người và phi nhơn không dám gần gũi nhiễu loạn, rắn độc không
dám chích, thuốc độc tự nhiên trừ, dao bén không trúng thương, nạn vua chẳng
dám hại, Phạm Vương chẳng dám giận. Trì Cú Thần chú này là tám mươi bốn
ức chư Phật đã nói. Hủy báng người trì chú đắc đại trọng tội.
Phật dạy A Nan: “Ta
cũng sẽ nói Thần chú Trì Cú nghĩ thương chúng sanh khiến được an vui, được danh
thơm lành tốt, được tiếng tăm khen ngợi, được sức oai thần như thế:
A tri hòa tri, na tri cưu na tri, đề lê, sa la
ba đề, a na ba đề, ba na đề, ba na ca hòa ni, ma ha ca hòa ni.
Phật dạy A Nan:
“Người thọ trì đọc tụng Trì Cú Thần chú này gặp Phật ra đời rất khó, Trì Cú
Thần chú càng rất khó hơn. Nếu kẻ trai lành và người gái tín nào thọ trì đọc
tụng Thần chú Trì Cú thì biết được túc mạng trong vô số kiếp. Người thọ trì ấy
tất cả Phù Ðà quỷ thần, người cùng phi nhơn không dám gần gũi nhiễu loạn, độc
xà không dám chích, độc dược tự nhiên trừ, dao bén chẳng tổn thương, nạn vua
chẳng dám hại, Phạm Thiên chẳng dám giận. Trì Cú Thần chú này là vô số ức chư
Phật đã nói. Hủy phạm người trì chú sẽ đắc đại trọng tội.
Phật dạy A Nan: “Trì
Cú Thần chú này khi đi đường hành đạo phải nên niệm tụng, hoặc đến chốn quan
quyền, hoặc giữa đường bị giặc, hoặc bị trùng độc, hoặc trong nạn đao binh,
hoặc người cùng phi nhơn, hoặc trong những hoạn nạn ấy phải nên niệm tụng là vì
Thần chú Trì Cú, chú nơi cây khô khiến sanh cành lá hoa trái, huống nữa là
người ấy chỉ trì gút Thần chú mà đeo, sẽ được lành trăm bệnh tiêu trừ, tự nhiên
an ổn, diệt họa trừ hung. Nam Mô Phật khiến chú này đều được tùy nguyện.
Phật nói kinh này rồi
hết thảy đại chúng hết lòng vui mừng.
IX
Như
thật tôi nghe, một thời Ðức Ðại Huệ Bồ Tát ở trên đảnh núi Tu Di. Bấy giờ hết
thảy chư Thiên Tử đến chỗ Bồ Tát đoanh vây cung kính để mà nghe pháp. Bấy giờ
có Bồ Tát gọi là Ðồng Tử Tướng chấp tay cung kính bạch Ðại Huệ Bồ Tát rằng:
“Cúi mong Ngài từ bi vì hết thảy chúng con nói Tăng Huệ Ðà Ra Ni bởi có tất cả
chúng sanh ngu muội độn căn, trí huệ kém thiếu khiến họ được nghe trí huệ thêm
lớn”. Bấy giờ Ðại Huệ Bồ Tát liền vì tuyên nói Ðà Ra Ni rằng:
Ðát nể dã tha, úm bế tổ bế tổ bát ra nghê dã phạ rị đà nể nhá ra nhá ra my đà
phạ rị đà nể địa ly. địa lỵ một đệ phạ lỵ đà my ta phạ hạ.
Lúc
bấy giờ Ðại Huệ Bồ Tát nói Ðà Ra Ni này rồi, dạy Ðồng Tử Tướng rằng: “Nếu các
chúng sanh trí huệ mờ kém, căn tánh hay nhiều sự lãng quên, hãy phát chí thành
tâm đối với Tăng Huệ Ðà Ra Ni này thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường.
Người này mau được đại trí huệ rộng lớn, thông minh nhớ mãi không quên. Nếu có
người lấy Chơn ngôn này tụng bảy biến hoặc mười bốn biến, ba phen gia trì trong
nước đem tâm ân trọng mà uống đó, ngày ngày như vậy uống cho đến bảy tháng hoặc
tám tháng thì tự nhiên mỗi ngày ghi nhớ đến ngàn bài tụng, như không thường
uống nước cũng có thể mỗi ngày ghi nhớ đến năm trăm bài tụng, trí huệ lần lần
thêm lớn, căn tánh sáng lẹ.”
Khi bấy giờ Ðồng Tử Tướng Bồ Tát và chư Thiên, nhơn đem lòng tín thọ phụng
hành.
X
TRỪ NHẤT THIẾT NHÃN THỐNG ÐÀ RA NI
Nam
Mô rát na tra da da, Nam Mô a rị da, a hoa lô ky tết sa hoa ra da. Bô đi sát
toa da. Ma ha sát toa da. Ða trích đá hu hu. Tỷ chi tà lỵ. Niết ma lỵ . Du đà
ninh dà giá đi mật la. Tát bà áo xỉ lộ. Dà xá ma ni tỳ na xá ni. Xa đà ni. Tỳ
xa đà ni. Ba đa sam một đã đam, Si ta sam mộ đã đam ni lỵ ma sam một đã đam.
Tán ni ba đa sam mộ đã đam tát bà na xá ni, tỳ na xá ni, a rị đa a hoa lô ky
tết sa hoar a đa. Na phiến đâu tát ty, áo xí lộ đà. Xoa ha.
Tụng
Chơn ngôn này gia trì vào tay 108 biến rồi xoa lên đôi mắt. Tất cả bịnh đau mắt
đều được an lành.
CỰ TÚC ÐÀ RA NI
Nam
Mô rát na tra da da, Nam Mô a rị da a hoa lô ky tết sa hoa ra da, bô đi sát toa
da. Ma ha sát toa da đa trích đá. Tú mi, Tú mi, Tú mi, sất rị, sất ri, sất rị.
Phấn minh tán phấn ninh. Phú la. Ni lam ám thảm hy nam đa mông kùn. Ba lỵ phú
nam. Ra tỳ tám đi. Xa đà, xa đà. Ba tư ni tỳ rị da, tỳ rị da. Ba lam, bô đi bô
đi sát toa da bà lam. Ba rị phú nan na mô la si sam ba ri phú na ma dub a tỳ
đi. Soa ha.
Muốn làm phép này, phải đốt trầm thủy hương tịnh tâm tụng chú 108 biến. Nếu
người nào các căn không đầy đủ, hoặc tay hoặc chân, tai, mũi, mắt có thiếu sót,
nên gia trì chú này vào cỏ mà thoa chỗ thiếu sót nơi thân mình. Do sức chú
nguyện, các căn thiếu đều mọc ra đầy đủ.
NHẤT THIẾT PHẬT PHÁP MÔN ÐÀ RA NI
Ưu mưu ni, phá ra mưu ni, cứu sá xà hê câu tế bạt xà, a ba la mưu sa, sa ni tỳ
đà la tư mật để, đa đa ca bà lỵ, tần đầu mạt ni, sa la kỳ la mạt la mạt la mạt
để. Ưu điệt để a nâu tư để. Tát bà nhương man lộ na xã na để, tỳ đà xà mạt để,
tỳ đầu mạt để tu ba la đế điệt để, a ni la tiết a bà ngâm su ra ni mi mật để,
ha sa mộ tỷ xoa ha.
Nếu hành giả đối trước tượng Phật hay Xá lợi mỗi ngày tụng Ðà Ra Ni trên đây
1000 biến và uống nước hắc mật, nước hoa sen hay nước trà hoa, qua bảy ngày như
thế tất sẽ chứng được Tha Tâm Trí. Trong một ngày kẻ ấy có thể ghi nhớ đọc tụng
1000 bài kệ. Nếu trong bốn chúng, có người nào ở chỗ vắng lặng chí tâm tu hành
Ðà Ra Ni này như pháp không quá bảy ngày kẻ ấy sẽ chứng được Tứ thiền. Phá hoại
kiết sử ở dục giới, được như ý, chứng tam muội của chư Phật mười phương, kẻ ấy
có thể làm tiêu trừ tất cả phiền não của chúng sanh, khiến cho loài hữu tình
được gần gũi và an trụ nơi đạo Thánh Hiền, không thối chuyển quả Vô thượng Bồ
đề và không do nhân khác mà chứng được tam muội vô ngại vô úy của tất cả chư
Phật.
(ĐÀ LA NI, QUYỂN 7)
PHỤ THÊM
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
TỌA THIỀN NIỆM PHẬT
Trong bài tựa Phạm Võng Bồ tát giới, có dạy rằng:
“Sắc trẻ không dừng, dường như ngựa
chạy. Mạng người vô thường, mau hơn nước dốc Ngày nay dù còn, khó bảo đảm ngày
mai”.
“Đại chúng! Mỗi người nên nhất tâm cần cầu tinh tấn, chớ biếng
nhác trễ lười, phóng túng ngủ nghỉ; ban đêm phải nhiếp tâm niệm Phật tham
thiền, chớ để thời gian luống qua vô ích mà sau này phải ăn năn…”.
Nhưng phàm muốn làm việc gì cho được
lợi ích, chúng ta cần phải “biết làm”. Việc ở đây muốn y chỉ lời dạy nhiếp tâm
niệm Phật, tham thiền. Lẽ tất nhiên, chúng ta phải biết làm sao để nhiếp tâm
niệm Phật, tham thiền cho trúng cách, đúng phương pháp, tức là biết cách tọa
thiền niệm Phật.
Vậy trước khi học, về phần thực hành,
chúng ta nên hiểu sơ qua về mục đích của phương pháp tọa thiền.
A.- MỤC ĐÍCH CỦA PHƯƠNG-PHÁP TỌA-THIỀN
Tọa thiền là một phương
pháp rất thông dụng, chẳng những trong đạo Phật mà ở ngoại đạo cũng vẫn có từ
xưa.
Tọa thiền tức là ngồi để
tham cứu một vấn đề gì. Thế nên, tọa thiền không phải là một phương pháp chứng
quả thành đạo, mà là một trong vô lượng phương tiện giúp cho thân được an, để
cho tâm không loạn và được chánh niệm chánh quán. Ngoại đạo chỉ chú trọng nơi
thân mà không để đến tâm, trong khi thật ra, tâm mới là phần chánh, đáng chú
trọng hơn cả.
B.-PHƯƠNG-PHÁP TỌA-THIỀN
Dưới đây là phần thật hành
mà ngài Thượng Tọa Vạn Đức dạy với tất cả sự kinh nghiệm mà ngài đã thâu hoạch
từ nhiều năm.
Phần này chia làm ba:
1.- ĐIỀU-THÂN
Thân lúc nào cũng làm
duyên trợ cho tâm. Thế nên, nếu thân có những cử động thô thiển, khí lực sôi
nổi, và lẽ tất nhiên tâm ý sẽ phù động, do đó khó mà nhập định được. Cho nên,
trước khi tọa thiền, cần phải điều hòa thân. Vậy phải điều hòa thân bằng cách
nào?
Phải
điều dưỡng sự ăn uống: Sự ăn uống đối với thân rất
hệ trọng, vì bệnh thường phát sanh do nơi sự ăn uống. Có những thực vật hạp với
cơ thể người này nhưng lại không thể hạp với người kia và trái lại. Dù sao,
không nên dùng những thứ có dầu mỡ nhiều, tránh những chất hăng, kích thích
thần kinh như càfé đậm, rượu, trà đậm, thuốc hút v.v... mà chỉ nên dùng những
món ăn sơ sài trong sạch.
Trước giờ tọa thiền,
không nên ăn quá no mà chỉ ăn vừa đủ, vì nếu ăn quá no sẽ làm mệt dạ dày, ngồi
không yên ổn. Không ăn chiều, lẽ tất nhiên là thích hợp đặc biệt với việc tọa
thiền niệm Phật.
Y phục: Trước khi tọa thiền, phải tắm rửa cho thân thể được
sạch sẽ để tránh khỏi ngứa ngấm trong người.
Sau đó, trời lạnh thì mặc áo ấm, trời nóng thì dùng y phục
mỏng, rộng rãi và sạch sẽ.
Đai lưng (lưng quần) lúc nào cũng phải nới rộng ra.
Những điều trên đây giúp cho sự hô hấp
dễ dàng và không bị lay chuyển bởi thời tiết.
Giữ thân cho được ngay
thẳng và vững vàng: (nghĩa là làm thế nào mà
khi quên nó, không nghiêng ngã hay lay động). Muốn được như vậy, chỉ có cách
duy nhất là ngồi, vì đi, đứng hay nằm không thể đạt được mục đích vừa nói trên.
Nhưng nếu ngồi mà thòng hai chân xuống, thì khi quên, thân lại
cũng không vững. Hơn nữa, lúc ở trong nhà, thất, có bàn, ghế, giường v.v… thì
không nói chi, nhưng khi ra ngoài vườn tược, đồng ruộng hay đến núi rừng để tọa
thiền, khó tìm ra chỗ ngồi có thể thòng chân xuống được dễ dàng.
Thế nên, chỉ có cách rút chân xếp bằng
lại, là giúp cho chúng ta ngồi ngay thẳng và vững vàng mà thôi.
Cách ngồi: Có
nhiều cách ngồi mà hành giả cần phải chọn lựa cho thích
hợp với mình.
CHƠN: Toàn già (cũng gọi
là kiết già hay Kim Cang tọa). Gác bàn chân trái lên đùi bên mặt, gác bàn chân
mặt lên đùi bên trái, gót hai bàn chân đều phải sát vào bụng.
Bán già, có hai cách:
-Hàng ma tọa: gác
bàn chân mặt lên đùi bên trái (như ngài Văn Thù Sư Lợi
Bồ tát).
-Kiết tường tọa: gác
bàn chân trái lên đùi bên mặt (như ngài Phổ Hiền Bồ
tát).
Trong ba cách ngồi, khi ngồi phải tập cho đầu gối đồng sát
xuống chiếu như nhau, hai mông cùng chịu đều như nhau thì mạch máu không bị
cấn, chân không bị tê, cũng không nên dùng nệm quá dày.
Một điều nên để ý, là thường lúc ban sơ, khi vừa ngồi kiết già
hay nghe một chân nặng một chân nhẹ. Để sửa chữa khuyết điểm đó, chỉ có một
cách là dùng hai tay chống xuống chỗ ngồi để nâng toàn thể thân lên và hạ bên
chân hay mông nhẹ xuống trước, bên nặng xuống sau, đôi ba lần thì hai chân hoặc
hai mông sẽ đều, không còn cảm tưởng nặng nhẹ nữa.
TAY: Hai bàn tay để ngửa, bàn tay mặt đặt
lên trên bàn tay trái, vừa sát bụng và để nhẹ trên hai bàn chân,
hai đầu ngón tay cái đâu lại (Tam muội ấn).
Phương pháp để bàn tay
như vậy, theo cổ đức nói, làm cho điện lực trong thân lưu thông đều đặn, không
biến thoát ra ngoài, giúp cho tâm dễ an ổn.
LƯNG: Tay chân đều đâu vào đó
rồi, phải lay chuyển thân thể độ ba, bốn lần cho được ung dung và
phải giữ xương sống ngay thẳng, chẳng khác nào một cây cột đối với cái nhà. Nếu
cột xiêu thì nhà đổ vậy.
ĐẦU, CỔ : Đầu và cổ cũng phải giữ cho ngay,
nhưng không được ngước thẳng quá.
MẮT: Mắt hơi nhắm lại, để chỉ còn
thấy tướng trắng hay sáng sáng bên ngoài thôi, đừng mở hẳn sẽ tán
loạn; mà cũng đừng nhắm hẳn sẽ bị hôn trầm.
MIỆNG: Miệng phải ngậm lại, chót lưỡi để trên
chân răng hàm trên, răng phải để cho thong thả, đừng cắn cứng lại,
nhờ đó hơi thở sẽ nhẹ nhàng.
2.- ĐIỀU TỨC
Khi thân đã nghiêm chỉnh rồi, bấy giờ hành giả mới bắt đầu thở
ra nhẹ nhàng nhưng cho dài, tâm nghĩ tất cả ô trược trong thân đều tựa theo
không khí mà ra ngoài hết. Đến khi hít vô cũng phải nhẹ nhàng và cho dài, nghĩ
bao nhiêu điều thanh tịnh bên ngoài đều vào trong hết.
Làm như vậy được hai ba lần hay đến năm bảy lần nếu cần, cho
trong thân được khoan khoái.
Sau đó phải giữ hơi thở nhẹ nhàng thong thả, suông êm, dài
ngắn cho quân bình.
Nên để ý, khi điều hòa hơi thở, hành giả thường gặp hai lỗi
sau:
PHONG TƯỚNG: tức là
hơi thở ra hít vào, nghe có tiếng gió, do vì hơi thở quá mạnh.
SUYỄN
TƯỚNG: tức là tuy thở ra vào không nghe tiếng nhưng lại gấp rút hoặc
rít sáp không thông.
Nếu khi ngồi tĩnh tọa mà thấy hai tướng trên đây, đó là triệu
chứng tâm không được an định.
Nếu khéo điều nhiếp, dùng sổ tức thở ra hít vào thong thả, ít
lâu sẽ thuần thục, tự nhiên hơi thở sẽ điều hòa, huyết mạch được lưu thông,
trong người sẽ được ung dung khoan khoái.
Thế nên, điều hòa hơi
thở là một công phu hệ trọng đối với phép tĩnh tọa.
3.- ĐIỀU TÂM
Trước khi tọa thiền, hành giả có phát tâm trước, hoặc sổ tức,
hoặc quán bất tịnh, hoặc niệm Phật v.v…
Nếu đã phát tâm niệm Phật, thì hành
giả phải nghĩ ta bà ngũ trược, nhớp nhơ, là nguồn gốc của muôn ngàn thống khổ,
nơi thân và hiện cảnh, phải làm thế nào thoát ly cho được, tức là phải yểm ly
(chán nản) sanh tử nơi ta bà mà cầu sanh về Cực Lạc.
Hành giả nhớ ngay đến cảnh Cực Lạc
thuần vui không khổ, có đủ thắng duyên, thắng cảnh trợ lực cho hành giả mau
thành Phật quả, quảng độ chúng sanh, đến Đức Phật A Di Đà tướng hảo quang minh,
lúc nào cũng duỗi lòng từ tiếp dẫn chúng sanh về Lạc quốc.
Lúc bấy giờ, hành giả
khởi niệm câu dài: “Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi
tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật”, rồi lần lần thâu ngắn lại còn sáu
chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” hay bốn chữ “A Di Đà Phật” lúc
đầu niệm lớn, sau niệm thầm để nhiếp tâm cho an trụ vào đó.
Khi niệm ra tiếng hoặc
thầm, đều cần thiết là phải niệm cho tiếng nổi rõ trong tâm chậm rãi, tâm ý
nghe rõ, nhận rõ từng tiếng từng chữ, tức là “Quán trí hiện tiền”.
Nếu không, tâm sẽ tạp
niệm (tán loạn), hay ngủ gục (hôn trầm) . Nếu tán
loạn, không rõ, lơ là hay khi hôn trầm muốn đến, hành giả phải cử tâm ngay bằng
cách chú ý đến câu niệm Phật.
Có khi hành giả cố gắng
kiềm tâm, nhưng tâm vẫn chạy và nếu tâm chạy mãi, thì có cách phải niệm Phật và
nghĩ ở đầu hai ngón tay cái, đầu hai ngón chân cái hoặc nghĩ ở nơi cái rún mà
niệm.
Làm như vậy, thần kinh
hệ sẽ hạ xuống, tức cái tâm sẽ hạ xuống mà bớt tán loạn.
Còn nếu bị hôn trầm thì
phải nghĩ ở đỉnh đầu hay ở trán mà niệm thì sẽ hết, vì ý chí phấn khởi.
Hoặc hành giả có thể
niệm theo phương pháp “Thập niệm ký số”, là khi niệm Phật, phải ghi
nhớ rành rẽ từ một đến mười câu, hết mười câu liền trở lại một, cứ như thế xoay
vần mãi. Nhưng phải niệm trong vòng mười câu mà thôi, không được hai mươi hoặc
ba mươi câu, lại không nên lần chuỗi vì dùng tâm ghi nhớ. Có thể phân làm hai
đoạn từ một đến năm, từ sáu đến mười. Hoặc còn thấy kém sức lại chia ra làm ba
hơi, từ một đến ba, bốn đến sáu, bảy đến mười.
Cần để ý: niệm
nhớ và nghe phải rõ ràng, vọng niệm mới không xen vào được.
Dùng phép này lâu sẽ
được nhất tâm.
Điều tâm là pháp môn tu chủ chánh. Nếu có sự biến chuyển nơi thân, không
nên để ý đến, mà phải chuyên gìn chánh niệm.
PHƯƠNG PHÁP GIẢI TỌA (XẢ THIỀN)
Khi xả thiền, hành giả làm ngược lại tất cả. Nghĩa là trước
hết phải xả nơi tâm, kế xả nơi tức và sau cùng là xả thân.
XẢ TÂM: Hành giả phải
nhớ lại, coi hiện giờ mình ngồi chỗ nào,
nãy giờ mình làm gì, nhớ coi mình có bị tán loạn hay hôn trầm không, và dù có
hay không, cũng vẫn hồi hướng công đức về Tây Phương để trang nghiêm Tịnh độ.
XẢ TỨC: Sau khi xả tâm
xong, hành giả mở miệng thở ra vài
hơi thật dài để cho khí nóng trong người giảm bớt, và để hồi phục lại trạng
thái bình thường như trước khi tĩnh tọa.
XẢ THÂN: Tâm, tức đều
xả xong, lúc bấy giờ hành giả se sẽ
giao động nơi lưng và cổ. Khi mạch lạc chạy đều, từ từ duỗi hai tay ra, lấy hai
bàn tay xoa nhè nhẹ với nhau, rồi xoa lên mắt, kế từ từ mở mắt. Sau đó, uốn
lưỡi một vài lần và nuốt chút nước miếng.
Tay và mắt xả xong, đến lượt hai chân. Trước hết phải lấy tay
xoa hai bắp vế, rồi tháo lần lần hai chân ra, thoa hai bắp chuối và hai bàn
chân. Khi nghe hai chân nóng hết rồi, hành giả chuyển động nhè nhẹ toàn thân
rồi đứng dậy, đi tới đi lui.
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT ĐỂ TỌA THIỀN CÓ KẾT QUẢ
Hôn trầm, ngủ nghỉ là một chướng trong việc tu thiền, thế nên,
nơi thân phải bớt ngủ nghỉ.
Phật dạy đầu hôm cuối đêm thì tham thiền, nửa đêm thì tụng
kinh để tự tiêu tức, nhưng nếu mình không kham nổi thì nên bớt sự ngủ nghỉ. Ban
đêm thì chỉ nghỉ ba canh, từ 11 giờ đến 04 giờ sáng thôi, đó
là lời dặn dò của cổ đức vậy. Còn nơi tâm thì phải có sự điều nhiếp theo hai
cách dưới đây:
1) Không niệm tham dục.
2) Không niệm sân hận.
Nếu thực hành hai cách
này mà không đắc lợi trên đường chánh định, hành giả phải kiểm điểm lại nơi tâm
coi sanh tội lỗi chi không. Hằng ngày phải nói lời dịu dàng, hòa nhã cho tâm
lóng xuống. Đối với người và vật, giữ cho tâm mát mẻ và luôn luôn nhẹ nhàng.
3) Ngoài
giờ tĩnh tọa, phải giữ câu niệm Phật không rời tâm.
Tâm tương ứng với chánh
định thì phát ra khinh an, trong thân sẽ thấy khoan khoái. Thân tâm hiệp nhất,
thân cảnh không hai. Lúc bấy giờ, hành giả ở trong định vắng lặng sẽ thấy thân
tướng Phật, nghe Phật thuyết pháp và những cảnh giới nhiệm mầu không sao kể
xiết…
Đó là tướng niệm Phật
thiện căn phát hiện do công phu tọa thiền niệm Phật mà thành công vậy.
(Trích Liên Hữu Văn Tập)
Tài liệu nầy chính
Thượng Tọa Trí Tịnh đã dạy cho sinh viên Tăng, Ni và Cư-sĩ Nam, Nữ tại ĐẠI HỌC
VẠN HẠNH.
NGÔ BỈNH TÍN
(Trích ở bộ Phật Tổ Thống Kỷ)
Ông Ngô Bỉnh Tín, tự Tử
Tài, người Minh Châu. Năm Thiệu Hưng triều Tống làm quan nơi triều, vì gây với
Tần Cối mà bị đuổi. Ông về làng cất am ở, ngày đêm tịnh tọa quán Phật
niệm Phật.
Ông sắm một cái hòm, ban
đêm vào nằm trong đó. Cắt một đồng tử cứ đến đầu canh năm gõ hòm mà xướng to
rằng: “Ông Ngô Bỉnh Tín về đi thôi! Tam giới không an chẳng nên ở, Tây phương
Tịnh độ có liên đài. Ông Ngô Bỉnh Tín về đi mau!”. Ông nghe tiếng liền trỗi
dậy TỌA THIỀN NIỆM PHẬT.
Ít lâu, Tần Cối chết,
triều đình triệu ông về giữ Lễ Bộ Thị Lang, rồi bổ nhiệm Thường Châu, năm Thiệu
Hưng thứ lại triệu về triều. Đi đến quán dịch ở Tiêu Sơn, ông tịnh tọa, giây
lát ông gọi những người tùy tùng bảo lắng nghe, mọi người đều nghe tiếng thiên
nhạc du dương từ Tây phương lần đến.
Ông nói: “Kim đài đã đến,
tôi xin đi!”. Dứt lời, ông liền tắt thở.
KHAI THỊ “ KINH THỦ LĂNG
NGHIÊM”
(của HT. THÍCH THIỀN-TÂM)
Đức Phật nói: “Lành
thay! A-Nan, các ông nên biết tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay chịu
sanh tử tương tục do vì không nhận ra “CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ”, thể
tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà nhận lầm các vọng tưởng. Các vọng
tưởng này vốn chẳng chân thật, thế nên bị luân chuyển.”
Nay ông muốn thấu rõ
quả vị vô thượng bồ-đề và phát minh chân tánh, ông phải dùng trực tâm đáp
ngay lời Như Lai hỏi. Mười phương Như Lai ra khỏi sinh tử, đều nhờ trực tâm.
Do tâm và lời nói đều ngay thẳng như thế, đến khoảng thời gian trước, sau, và
thời kỳ trung gian tuyệt nhiên không có lời nói quanh-co.
A-Nan, nay tôi hỏi ông:
“Ngay khi ông vừa mới phát tâm là do ông thích 32 tướng tốt của Như Lai, Vậy
ông lấy gì để thấy và ông ưa thích cái gì? A-Nan thưa: “Bạch Thế Tôn! Sự
yêu thích như thế là do TÂM và MẮT của con. Do mắt thấy tướng thù thắng của
Như Lai nên tâm ưa thích và phát tâm nguyện xả bỏ sinh tử.”
Đức Phật bảo A-Nan:
“Như ông nói, thật chỗ yêu thích là do tâm và mắt. Nếu ông không biết
tâm và mắt ở đâu thì không thể nào hàng phục được trần
lao.”
Ví như quốc vương, khi
có giặc đến xâm chiến nước mình, muốn phát binh đi trừ dẹp, thì cần phải
biết giặc ở nơi đâu.
Lỗi lầm là ở tâm và mắt
khiến ông bị lưu chuyển. Nay tôi hỏi ông, riêng TÂM và mắt nay
ở chỗ nào?
(KINH LĂNG NGHIÊM)
Mỗi câu tràng hạt (THỦ NHÃN) Phật là tâm
Phật rõ là tâm, uổng chạy tìm!
Bể Phật dung hòa tâm với cảnh
Trời tâm bình đẳng Phật cùng sanh
Bỏ tâm theo Phật còn mơ mộng
Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.
Tâm, Phật nguyên lai đều giả huyễn
Phật, tâm đồng diệt đến viên thành.
(NIỆM PHẬT THẬP YẾU- HT.
THÍCH THIỀN-TÂM)
TÂY PHƯƠNG NHỰT KHÓA
Chớ quản gió-sương sông-núi cách,
Hoa sen Bảo-Tích sắc hương-mầu.
I. LỜI PHI-LỘ VÀ PHỤNG-KHUYẾN
1. Thích ứng cả ba căn
2. Gồm tự-lực, tha lực
3. Giải thoát ngay trong hiện-kiếp
4. Hợp với thời-tiết, cơ-duyên
5. Luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay
6. Vài điều kết yếu
II. NGHI THỨC MẬT TÔNG
1. Lễ bái sám hối
2. Trì chú niệm Phật
3. Phát nguyện hồi hướng
CHƯƠNG I
LỜI PHI-LỘ VÀ PHỤNG-KHUYẾN
Hiện nay, Người tu Tịnh-độ càng ngày càng đông. Sở-dĩ như thế, bởi vì môn Niệm-Phật có những yếu-tố :
1) Thích ứng cả ba căn
2) Gồm tự-lực, tha lực
3) Giải thoát ngay trong hiện-kiếp
4) Hợp với thời-tiết, cơ-duyên
5) Luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay
6) Vài điều kết yếu
1.- NIỆM-PHẬT THÍCH-ỨNG CẢ BA CĂN
Các pháp-môn khác, nếu như thấp thì bậc THƯỢNG-CĂN chẳng thích tu, và nếu như cao tất các bậc TRUNG, HẠ-CĂN không kham tu.
Chẳng hạn như về THIỀN-TÔNG, thì đạo-lý thật mầu-nhiệm cao-siêu, một niệm đi thẳng vào chân-tâm sáng-suốt, ứng-dụng tự-tại, vượt khỏi đầu sào trăm trượng, như nhạn bay giữa thái-hư dấu-vết chẳng còn lưu.
Nhưng khúc điệu càng cao, người họa lại càng thêm thưa ít. Nếu chẳng phải bậc Huệ-căn gieo sẵn, chỉ e cho vẽ cọp không thành.
Nên cổ-đức đã bảo:
“Chẳng phải căn thượng-thượng,
Dè-dặt chớ khinh-truyền.”
(Phi thượng-thượng căn,
Thận vật kinh hứa ).
Bởi nếu không phải là bậc THƯỢNG-CĂN triệt-ngộ thiền-cơ thì chẳng thể nhập được ngay vào chân-không, mà phần nhiều lại lạc vào lối chấp thiên-không. Rồi từ đó bác phá nhân-quả, sự tướng, tăng lòng ngã-mạn, cống-cao.
Về điều nầy trong bài CHỨNG-ÐẠO-CA, VĨNH GIA HUYỀN-GIÁC thiền sư có nói:
"Nếu chấp cái không trống-rỗng,
rồi bác phá nhân-quả thì ương-họa lan-tràn !".
(Hoát-đạt không, Bác nhân-quả,
Mãng-mãng, đảng-đảng chiêu ương-họa !).
Thật ra THIỀN-TÔNG cần phải duy-trì và phục-hưng, cho chúng-sanh được độ-thoát an-vui, vườn hoa Phật-giáo thêm thắm-tươi đầy đủ màu-sắc hơn. Nếu có bậc tu THIỀN chân chánh làm lợi-ích cho mình và người, cũng đáng nên cúi đầu đảnh-lễ. Rất tiếc nhiều kẻ mới vào cửa mầu THIỀN học, liền chuộng những huyền-lý cao siêu, vội xem thường sự: Thờ cúng, Tu phước, Giữ giới, Sám hối, Tụng kinh, cho là hành-môn thấp nhỏ, chấp-trước sự-tướng.
Cảnh-trạng một kẻ mê đường dẫn nhiều người lạc lối, khiến cho ngay những bậc tôn-đức bên THIỀN trông thấy cũng thê-lương cho Phật-pháp, xót-dạ, đau lòng !
Nếu huyễn-sắc tức là chân-không thì dù tham THIỀN, niệm PHẬT, tụng KINH, hay hành-trì tất-cả sự-tướng trong đạo-pháp, cũng đều là chân không. Bậc liễu-đạt tùy-niệm ứng-dụng tự-tại không dính-mắc, như trái hồ-lô lăn tròn trên mặt nước, can chi mà phòng-ngại!
Cho nên chư Cổ-đức bên THIỀN đã cảnh-giác: " THIỀN-TÔNG nếu đi đúng tất mau chứng-quả BỒ-ÐỀ, còn lạc lầm thì đọa vào địa-ngục như tên bắn !". Các Pháp-môn cao, với bậc THƯỢNG-CĂN mới được sự lợi-ích thiết-thật LÀ NHƯ THẾ ẤY.
Còn môn TỊNH-ÐỘ thì thích ứng tất cả ba căn-cơ: THƯỢNG, TRUNG, HẠ. Bậc THƯỢNG-THƯỢNG căn như các ngài: VĂN-THÙ, PHỔ-HIỀN, LONG-THỌ, TRÍ-GIẢ và các bậc cao-đức khác nữa xưa nay, phần nhiều đều tu về môn nầy.
Như trong kinh HOA-NGHIÊM, THIỆN-TÀI đồng-tử khi đi tham-phỏng bậc tri-thức đầu tiên là ÐỨC-VÂN BỒ-TÁT, ngài ÐỨC-VÂN đã đem môn NIỆM-PHẬT TAM-MUỘI mà truyền dạy. Ðến lúc cuối cùng, PHỔ-HIỀN đại sĩ cũng nói MƯỜI ÐẠI NGUYỆN vương, khuyên THIỆN-TÀI và chư-vị Bồ-tát trong Hoa-tạng Hải-hội niệm Phật hồi-hướng về CỰC-LẠC. Do đấy, nên bảo niệm PHẬT là pháp-môn thấp kém, chỉ để cho hạng tầm-thường, ngu-dốt tu, là quan-niệm rất sai lầm!
Ðến như bậc hạ-căn, thì trong TỊNH-ÐỘ THÁNH-HIỀN LỤC đã ghi chép các sự-tích. Kẻ ngu-muội dốt-nát, phá-giới phạm-trai, nghèo khổ tật-nguyền, cho đến loài chim theo lời người dạy xưng danh-hiệu Phật, biết hồi-tâm sám-hối, trì-niệm chuyên-thành, đều được nguyện lực của PHẬT nhiếp-thọ, tiếp-dẫn sanh về Cực-lạc. Cho nên một bậc danh-đức xưa đã khen môn Tịnh-độ là:
“Bảo-phiệt ra khỏi Ta-bà,
Huyền-môn để thành Phật-đạo”.
(Xuất Ta-bà chi bảo-phiệt,
Thành Phật-đạo chi huyền-môn).
Cũng trong ý đó, Ấn-Quang Ðại-sư có câu đối :
“Bỏ đường tắt Tây-phương, chín giới chúng-sanh,
trên khó thể viên-thành quả-giác.
Lìa cửa mầu Tịnh-độ, mười phương chư PHẬT,
dưới không toàn độ thoát loài-mê”.
Nói theo kinh:
“Pháp-môn niệm-Phật,
Quả thật như chiếc lưới báu cực to,
Có thể vớt tất-cả các loài cá lớn nhỏ trong tam-giới,
Đưa lên bờ Niết-bàn vậy”.
2. - NIỆM-PHẬT GỒM TỰ-LỰC VÀ THA-LỰC
Trừ hai pháp-môn TỊNH-ÐỘ và MẬT-TÔNG, các pháp-môn khác đều nương vào nơi TỰ-LỰC, tức là sức tu của chính mình, để cầu giải-thoát. Luận riêng về TỊNH-ÐỘ, thì môn nầy gồm cả "Tự-lực" và "Tha-lực". Tự-lực là sức trì-niệm của riêng mình; Tha-lực là sức nhiếp-thọ hộ-niệm trong hiện-tại và sự tiếp-dẫn vãng-sanh của PHẬT khi lâm-chung.
Có người bảo người Tu môn niệm PHẬT là hèn-yếu, chỉ ỷ-lại vào tha-lực, cũng là quan-niệm cạn-cợt, sai-lầm.
Hành-giả Tịnh-độ Thân lễ-kính PHẬT, Miệng xưng danh PHẬT, Ý chuyên tưởng PHẬT, nhiếp-tâm từ LOẠN vào ÐỊNH, cho đến cả khi ÐI, ÐỨNG, NẰM, NGỒI. Vận-dụng cả ba nghiệp để hành-trì, cố-gắng hết sức mình, đó là chứng-minh thực-tế và hiển-nhiên về Tự-lực.
Như thế, tại sao lại bảo rằng niệm PHẬT là hèn-yếu, chỉ ỷ lại vào tha-lực ?
Cho nên, niệm-PHẬT chính là đem hết tự-lực của mình để cảm thông với tha-lực của PHẬT, cứu-cánh là dung-hòa TỰ với THA, TÂM và PHẬT, đi sâu vào CHÁNH ức NIỆM Tam-muội. Bước đầu tiên khi đã có sự cảm thông, thì hành-giả sẽ được Phật phóng quang-minh thường-trụ nơi đảnh nhiếp-thọ, hiện-tiền tiêu-trừ tội-chướng tai bịnh, phước-huệ lần-lần tăng, khi mãn-phần lại được tiếp-dẫn sanh về Cực-lạc.
Sỡ-dĩ người xưa nay khi đề-cập đến môn Tịnh-độ, phần nhiều nhấn-mạnh về Tha-lực, đó là hàm-ý chú-trọng sự tiếp-độ đến chỗ giải thoát. Vì nếu không được sức Phật nhiếp-thọ tiếp-dẫn, thì đạo lực tầm-thường của hành-giả không thể sanh về cõi Cực-lạc cách đây mười muôn ức Phật độ.
Bởi dù cho đạo lực của lục-thông La-Hán, cũng chỉ ở phạm-vi thấy biết, dạo đi trong cõi Tam-thiên đại-thiên, thuộc thế giới Ta-bà nầy mà thôi. Và khi còn hoặc-nghiệp mà không được tiếp-dẫn vãng-sanh Cực-lạc, bước lên cảnh-giới Bất thối-chuyển, nương nơi thắng-duyên của cõi ấy mà tiến-tu, tất phải tùy nghiệp chịu cảnh luân-hồi, không biết chừng nào mới được giải-thoát !
Vì sự vãng-sanh có điểm rất quan-hệ như vậy, nên Tha-lực của Tịnh-độ được chú-trọng nhiều, khiến cho kẻ nông-cạn vội nhận lầm là môn nầy chỉ ỷ-lại vào nơi Tha-lực, không cần tự lực.
Ðến đây, thấy nên giải-thích thêm vài ba nghi-vấn. Có kẻ nói:
“Bậc Bồ-tát chứng vô-sanh nhẫn đã dứt hoặc-nghiệp, thoát khỏi luân-hồi, cần chi phải cầu về Cực-lạc ? Và các vị ấy có thần thông đi đến vô-lượng thế-giới, lại cần chi niệm Phật để cầu sự tiếp-dẫn ?”
Xin đáp, theo kinh nói:
"Sự cất chân lên để bước xuống của PHẬT, bậc Ðẳng-Giác Bồ-tát còn không hiểu-thấu, huống chi hàng Thập-địa Bồ-Tát ! Các vị ấy tuy dứt kiến tư và trần-sa hoặc, song Vô-minh hoặc hãy còn, nên cần phải gần-gũi PHẬT để học đạo-pháp thành PHẬT. Thật ra, chư đại Bồ-tát có hai việc: Trên cầu về mười phương Tịnh-độ để học vô-lượng pháp-môn của Như-Lai, Dưới hiện thân khắp mười phương uế độ để giáo-hóa các loài hàm-thức.
Pháp-thân của chư vị thường-trú, tuy ở cõi Tịnh mà không lìa cõi uế, và dù ở uế-độ vẫn không rời khỏi Tịnh-độ. Còn việc Bồ-tát niệm Phật để cầu tiếp-dẫn, ví như một học-giả đến viếng bậc Thầy của mình, tuy có thể tự-tại đi vào nhà, nhưng theo lễ phải xin phép. Và vị Thầy đúng theo tâm-niệm dìu-dắt hàng hậu-lai, cũng vui vẻ tiếp đón. Việc như Bồ-tát muốn về Cực-lạc, niệm hồng-danh Phật để cần-cầu, và Đức Phật tùy bản-nguyện, đến tiếp dẫn cũng lại như thế.
Nhưng Sự tiếp-dẫn của Phật tùy-niệm ứng-hiện, trong một sát na có thể đồng-thời đến vô-biên thế-giới ở mười phương, tiếp-dẫn số chúng-sanh như vi-trần, như gương trăng sáng hiện bóng khắp các điểm nước, sông, hồ, đâu có tướng đến đi và đâu có chi nhọc-mệt mà phòng-ngại!”.
3.- NIỆM-PHẬT GIẢI-THOÁT NGAY TRONG HIỆN-KIẾP
Với các pháp-môn khác, hành-giả phải dứt trừ hết hoặc-nghiệp mới vượt sự sống-chết, luân-hồi. Riêng môn Tịnh-độ, dù cho hoặc-chướng hãy còn, vẫn có thể hiện-đời nương nơi nguyện-lực của PHẬT, đới-nghiệp vãng-sanh, tiến thẳng lên bờ giải-thoát. Về điểm nầy, trong bức thư phúc-đáp cho TỊNH-TU pháp sư, ngài ẤN-QUANG đã nói như sau:
"Có hai đường tiến đến chổ giải-thoát là: THÁNH-ÐẠO và VÃNG-SANH.
Về THÁNH-ÐẠO, tức đường tu chứng lên quả THÁNH không chi thẳng tắt mau lẹ hơn môn "Trực-chỉ thiền". Nhưng tu Thiền giữa thời buổi nầy, trong hiện đời chưa dễ gì ngộ-đạo, huống chi là chứng-đạo ư ?
Nếu như không chứng quả, trong mười người tu đã lạc-lối hết tám chin, bởi khi luân hồi sẽ bị nhiều chướng-duyên làm cho thối-chuyển, dễ mê-muội túc-căn. Tu Thiền, nếu chứng được sơ-quả Tu đà-hoàn, tuy còn 7 lần sanh lên cõi Trời, 7 phen trở lại nhơn-gian, nhưng sẽ không lo thối-chuyển. Khi chứng đến quả A-LA-HÁN, mới dứt hẳn luân-hồi.
Ngoài ra, thì không nhứt-định, có kẻ đời hiện-tại tu-hành rất tốt, kiếp sau được hưởng phước, say đắm theo dục-lạc, tạo nghiệp ác rồi bị đọa vào địa-ngục. Dù cho năm ba đời giữ được thiện-căn, không tạo nghiệp ác, song ai có thể bảo-đảm những kiếp về sau lại chẳng gây nghiệp rồi bị đọa tam-đồ!
Chẳng nói đâu xa, ngay trong đời hiện-tại, rất nhiều hành-giả trước siêng-năng, sau biếng-trễ, đạo-tâm dần-dà thối-chuyển, đến nỗi có kẻ phải hoàn tục. Những đời về sau, theo đà mạt-kiếp, Phật-pháp lần suy kém, bậc thiện tri-thức rất khó tìm, sự giải-thoát lại còn xa hơn nữa!
Riêng có đường lối VÃNG-SANH, là niệm PHẬT cầu về Tịnh-độ, thì dù cho hoặc-chướng hãy còn, vẫn có thể nương theo nguyện-lực tiếp-dẫn của đức A-DI-ÐÀ, vượt ngang ba cõi, đới-nghiệp thẳng sang Cực-lạc. Thật ra, cũng như bên Thiền, giữa thời Mạt-pháp nầy, người tu Tịnh-độ đến cảnh-giới "SỰ nhứt-tâm bất-loạn" rất là ít có, huống chi là cảnh "LÝ nhứt tâm", và đi sâu vào " Niệm-Phật Tam-muội"!
Nhưng nếu thuở bình-nhựt chuyên trì-niệm, khi lâm-chung, chủng-tử của câu hồng-danh đã huân-tập từ lâu phát-hiện, liền khiến cho tạm-thời được nhứt-tâm. Lúc ấy chỉ cần gia thêm ý-niệm tha-thiết, rủ sạch trần-duyên hướng về Liên-Quốc, quyết-định sẽ được sự cảm-thông tiếp-dẫn.
Khi đã về đến cõi ấy rồi, trên có PHẬT, Bồ-tát, dưới là các hàng Thượng thiện-nhơn, nước chảy, chim kêu, nói ra pháp-diệu, không còn bị các duyên ăn, mặc, ở và sanh-kế (y, thực, trụ, hành) làm vướng-bận, sống lâu vô-lượng kiếp, lo chi đạo-quả không thành! Pháp-sư đã hỏi, tôi chỉ y theo chỗ thấy hiểu của cổ-đức và căn-cứ nơi Phật-lý mà giải-đáp, "XIN SUY-GẨM KỸ RỒI TÙY-TÂM LỰA CHỌN ..."
Lời trên đây của Ðại-sư, đã vạch rõ chỗ ổn-đáng và khó bảo đảm trên đường giải-thoát của thời nay, giữa TỊNH cùng THIỀN.
4.- NIỆM PHẬT HỢP THỜI-TIẾT, CƠ-DUYÊN
Trong thời Chánh-pháp và Tượng-pháp, con người phần nhiều nghiệp nhẹ, tâm thuần, hoàn-cảnh sinh-hoạt giữa xã-hội lại đơn-giản, có thể tu các pháp-môn về Thánh-đạo. Thời ấy, Thiền-tông đặc-biệt hưng-thạnh, hành-giả căn-cơ sang lẹ, thấy non xanh hoa-nở, nghe gió thổi suối reo đều có thể ngộ-đạo.
Nhưng từ thời mạt-pháp về sau, nhơn tâm khác xưa, sự sinh-hoạt, tổ-chức giữa xã-hội lần-lần phức-tạp, căn-cơ người tu phần nhiều là bậc Trung, Hạ. Cho nên muốn bảo-đảm sự giải-thoát, cần phải hướng về pháp hợp với thời-tiết, cơ duyên là MÔN NIỆM-PHẬT. Về điều nầy, xin dẫn những chứng-liệu như sau:
Trong kinh "ÐẠI-TẬP NGUYỆT-TẠNG", đức Thích Tôn đã lời huyền-ký: "THỜI MẠT-PHÁP, ỨC-ỨC KẺ TU-HÀNH, SONG ÍT CÓ NGƯỜI ÐẮC-ÐẠO, CHỈ NƯƠNG THEO PHÁP-MÔN NIỆM-PHẬT MÀ THOÁT KHỎI LUÂN-HỒI." (Mạt-pháp, ức-ức nhơn tu-hành, hản nhứt đắc-đạo. Duy y niệm-Phật, đắc độ sanh-tử).
Nơi kinh "VỘ LƯỢNG-THỌ", Phật cũng bảo: "TRONG ÐỜI TƯƠNG-LAI, KHI KINH-ÐẠO DIỆT HẾT, TA DÙNG SỨC TỪ-BI, THƯƠNG XÓT, RIÊNG LƯU-TRỤ KINH NẦY MỘT TRĂM NĂM. CHÚNG-SANH NÀO GẶP KINH NẦY, TÙY THEO SỞ-NGUYỆN, ĐỀU CÓ THỂ ÐẮC-ÐỘ."(Ðương-lai chi thế, kinh đạo diệt-tận, ngã dĩ từ-bi ai-mẫn, đặc lưu trữ kinh, chỉ trụ bá tuế. Kỳ hữu chúng-sanh, trị tư kinh giã, tùy-ý sở-nguyện, giai-khả đắc-độ)
Ðức Như-lai là bậc trí-huệ rộng sâu, vì sao chẳng lưu lại các pháp kia, mà chỉ lưu môn Tịnh-độ ? Ðó là thâm-ý PHẬT đã chỉ rõ : "THỜI MẠT-PHÁP VỀ SAU, ÐƯỜNG TU HỢP VỚI CƠ-DUYÊN CHÚNG-SANH, CHỈ LÀ MÔN TỊNH-ÐỘ”.
Nơi đoạn Minh-Giáo của AN-LẠC TẬP, Ðạo-Xước Thiền-sư có lời bình-luận : " NẾU GIÁO-PHÁP HỢP VỚI THỜI-CƠ, THÌ DỄ TU, DỄ NGỘ. NHƯ GIÁO-PHÁP TRÁI THỜI-CƠ, TẤT KHÓ TU, KHÓ NHẬP. Nên Kinh Chánh-Pháp Niệm nói: " HÀNH-GIẢ KHI NHỨT-TÂM CẦU-ÐẠO, PHẢI QUAN-SÁT VỀ PHƯƠNG-TIỆN THỜI-CƠ, NẾU TRÁI VỚI PHƯƠNG-TIỆN ÐÓ, TẤT BỊ THẤT-LỢI”.Tại sao thế ?
Như cọ gỗ ướt để tìm lửa thì không thể được, vì trái thời. Và như bẻ cây khô để tìm nước, cũng chẳng thể có, vì không trí-huệ. Ðức Như-lai đã phân-định năm thời kiên-cố sau khi Ngài nhập-diệt, mỗi thời là năm trăm năm. Trong các thời Chánh-pháp và Thiền-định Kiên-cố, hành-giả nên chọn Thánh-đạo, tu Ðịnh-huệ làm phần chánh, cầu Tịnh-độ làm phụ”.
Từ cuối thời Ða-văn kiên-cố bước sang thời Tháp-tự và Ðấu-tranh kiên-cố về sau, nên lấy Tịnh-độ làm phần chánh, tu Thánh-đạo làm phụ".
Ngoài những chứng-liệu trên, còn lời huyền-ký của bậc chơn-tu đắc đạo là Thiên-Như Thiền-sư, cùng những điểm nhận-định và biện-chứng của các bậc danh-đức xưa nay. Trong phạm-vi khái-ước nầy không thể nêu ra hết được. Bên Trung-Hoa từ cuối đời nhà Tống về sau, các bậc Tôn-đức quan-sát rõ thời-cơ, đều chuyển lần từ Thiền trở sang xiển-dương Tịnh-độ. Tuy nhiên vì Thiền tông lưu-hành hưng-thịnh từ lâu thành phong-thái, nên thường có sự tranh-đua giữa TỊNH VÀ THIỀN.
Song, đó chỉ là Kiến-chấp của một số người chưa Quán-triệt Phật-lý cùng Thời-cơ, còn các bậc cao Tăng đã Liễu-đạt, thì chỉ tùy-duyên mà duy hộ chánh-pháp, tuyệt không có tâm-niệm phân-biệt đây kia. Cứ trung-thật mà luận, chúng hữu-tình có nhiều tâm-bệnh cùng sở-nguyện, riêng một môn Tịnh-độ vẫn không thể phổ-cập và thích-ứng để hoằng dương chánh-pháp, lợi-ích quần-sanh, nên rất cần sự có mặt của các pháp-môn.
Theo thiển-ý, trong thời Mạt-pháp, hành-giả các tông-khác, tuy hoằng-truyền bản-môn, nhưng cũng nên nghiên-cứu Tịnh tông và quy-hướng về lối vãng-sanh để bảo-đảm cho sự giải-thoát, như chư Tôn-đức bên Tông Tào-động, ngoài hoằng Thiền trong kiêm tu Tịnh khi xưa. Và người tu Tịnh-độ cũng cần học-hỏi các TÔNG khác, để thêm tiến-ích cho đường hành-đạo của mình, bởi mỗi TÔNG như những đóa-hoa, đều sáng tươi riêng phần đặc-sắc. Lời dẫn-luận trên, chỉ y theo quan điểm từ-mẫn lợi sanh của PHẬT và chư Cổ-đức, nêu ra một đường lối tu-tập thích-ứng với thời-tiết và cơ duyên mà thôi.
Ở Trung-Hoa vào thời cận đại, có phong-trào chấn-hưng Phật-giáo do một số danh-tăng và Phật-tử trung-kiên cổ-xúy. Quán-sát hành-vi lúc sanh-thời và khi lâm-chung của ít người trong nhóm đó, những biểu-tượng mà thường nhơn không thể có được, nhiều nhà học Phật quả-quyết đó là các bậc Bồ-tát tái-lai để duy hộ chánh-pháp. Trong hạng các người phi-thường ấy :
Dế-Nhàn pháp-sư giảng-kinh khắp nơi, chấn-hưng về Thiên-Thai tông
Hư-Vân Thượng-nhơn tu chỉnh các danh-lam, thánh-tích của Phật-giáo, chấn-hưng về Thiền tông.
Ấn-Quang đại-sư dùng thơ-tín, kinh, tượng độ vô-số người, chấn-hưng về Tịnh-độ tông.
Hoằng-Nhứt đại-sư nghiêm giữ giới-hạnh, soạn thành bộ "Nam-Sơn Luật Uyển Tông-thư, chấn-hưng về luật tông.
Thái-Hư đại-sư vận-động cuộc canh-tân Phật-giáo, chấn-hưng về Duy-thức tông.
Kim-Cang Thượng-sư Hô-Ðồ Khắc-Ðồ Tây-Khang đến truyền-dương về Mật-tông.
Đến như cư sĩ Dương-Nhân-Sơn trọn đời thành-lập Bang, Hội sưu-tầm và ảnh ấn các tượng Phật, Bồ-Tát và "Tam-tạng kinh-điển", để cho chánh-pháp khỏi bị sớm hủy-diệt về sau.
Riêng ngài ẤN-QUANG đã đem sự vãng-sanh lúc lâm-chung, chứng-minh cho lời nói và hành-động buổi bình-thời, thì không cần bàn luận.
Còn Dế-Nhàn pháp-sư tuy hoằng dương kinh Pháp-Hoa, truyền dạy môn Tam-Quán, nhưng lúc lâm-chung vẫn theo gót đấng khai-tổ bản-tông là Thiên-Thai Trí-Giả, niệm Phật sanh về Cực-lạc.
Hư-Vân Thượng-nhơn tuy thị-hiện ngộ-đạo, làm mô-phạm hướng-dẫn hành-giả tu Thiền, song khi gặp hoàn-cảnh, cơ-duyên cũng khuyên người niệm-Phật.
Hoằng-Nhất đại-sư lưu lại bút-tích "Bi-Hân Giao-Tập", lúc lâm-chung khi thấy Tây-phương Tam-Thánh đến rước.
Thái-Hư đại-sư hoằng dương Duy-Thức, song hằng khen-ngợi mười phương Tịnh-độ, nhưng vì không muốn trái với ứng-tích của đấng khai-tổ là Di-lặc Bồ-tát, nên hồi-hướng cầu sanh Ðâu-Suất Tịnh-Độ.
Thượng-sư Hô-Ðồ Khắc-Ðồ tuy-truyền pháp "Thánh cứu-độ Phật mẫu", gồm 21 Độ Mẫu, hóa-thân của đức Quán-Âm để cứu nạn tai thời mạt-kiếp, song cũng khuyên hàng đệ-tử đem công-đức trì-niệm hồi-hướng về Cực-lạc.
Dương-Nhân Sơn cư-sĩ lúc mãn phần, ngồi chắp tay nói với các hàng đạo-hữu: "Bản-nguyện của tôi cùng bản nguyện đức A-Di-ÐÀ dung-hợp nhau" , rồi niệm Phật mà hóa.
Có phải chăng các bậc danh-đức trên đây, tuy mỗi người làm một Phật-sự, song đã dùng bản thân, hoặc lời nói mà ngầm khuyên các hành giả chú trọng về sự giải-thoát, vãng sanh.
5.- LUẬN VỀ NGƯỜI VÀ CẢNH THỜI NAY
Nói-chung trên phương-diện hoằng-dương đạo-pháp, mỗi Tông đều phát-huy những đặc-điểm của mình, để người học Phật tùy sở-thích mà thu-nhập. Nhưng bình-tâm thử-nghiệm xét, lúc nầy là thời buổi nào ?
Thời nầy LUẬN VỀ NGƯỜI, thì chúng sanh phần nhiều đều nặng nghiệp. Bên Trung-Hoa, khoảng cuối đời nhà Thanh bước sang thời Dân-quốc, Cư-sĩ Cao-Hạt-Niên khi hỏi đạo nơi các danh-lam, gặp một vị cao-tăng ẩn-tu bảo:
“Thời nay, trong 100 kẻ ác, mới có một người thiện. Trong 100 kẻ thiện, mới có một người hướng về đạo. Trong 100 kẻ hướng về đạo, mới có một người giữ vững tâm-nguyện, không thối-chuyển trên bước đường tu-hành.”
Thuở-xưa , trong lúc phú-pháp cho Huệ-Khả Ðại-sư, Tổ Ðạt-Ma có dạy:
“Khoảng 200 năm về sau, người học LÝ thì nhiều, song ngộ LÝ rất ít. Người nói Lý thì nhiều, song hành LÝ rất ít. Người hành LÝ hoặc nhiều, song chứng LÝ rất ít. Nên ý-thức, chỉ riêng bước đầu là phần học Phật-lý, nhiều kẻ nếu chẳng vướng về chấp CÓ, giữ chặt lấy SỰ-TƯỚNG, thì cũng lạc vào chấp KHÔNG, bài-bác nhân-quả! Mấy ai là bậc hiểu sâu Phật thừa, liễu ngộ DIỆU-HỮU TỨC CHƠN KHÔNG, CHƠN-KHÔNG TỨC DIỆU-HỮU ? Cư-sĩ tuy mộ-đạo, song dè-dặt đừng sa vào kiến-chấp đó”.
Cao Hạt-Niên cư-sĩ có hỏi đến chỗ tiến chứng của nhiều bậc Trưởng-lão. Tất-cả đều khiêm-nhường Svà thành-thật trình-bày, đại-khái như: Nghiệp-chướng nặng, Còn nhiều tán-loạn, hôn-trầm, Giới-hạnh và oai-nghi kém-khuyết, Bước tu chưa đạt đến thật-địa…Khi cư-sĩ đề-cập đến những kẻ xưng mình đã chứng-ngộ, thì các vị ấy đều cảnh-giác:
“Theo kinh Lăng-Nghiêm, đức PHẬT có huyền-ký : Gần thì thập-thế 1000 năm (mỗi thế có 100 năm), xa thì bách-sanh 3000 năm (mỗi sanh có 30 năm), có rất nhiều ma ngoại ám-nhập người tu, hoặc ẩn-bóng trong chánh-pháp. Thời buổi nầy, nếu có ai tự-xưng đã chứng-ngộ, hoặc bảo rằng mình là PHẬT, TỔ hiện-thân, đó đích-thị là hàng ma ngoại”.
Những điều trình-thuật trên đây, cho chúng ta thấy CON NGƯỜI THỜI NAY HOẶC-NGHIỆP và MA-CHƯỚNG QUÁ NHIỀU !
LUẬN VỀ CẢNH, thì những tai-nạn : Ðộng đất, núi lở, bảo-lụt, trộm-cướp, chiến-tranh, lửa cháy, hạn-hán, mưa nắng trái thời, sâu trùng phá-hoại, dịch-chướng lan-tràn, đã diễn ra ở nhiều nơi. Nhìn đến tương-lai, trận thế-chiến thứ ba chắc đâu tránh khỏi ! Các phái Tiên đều bảo buổi nầy là thời mạt-kiếp, có sự thanh-lọc rộng-lớn. Ðạo Chúa nói sẽ có tận-thế trước năm hai ngàn.
Còn riêng bên đạo Phật, khi HƯ-VÂN thiền-sư xuất-thần lên cung trời Ðâu-xuất, được nghe DI-LẶC Bồ-tát nói pháp-môn Duy-Tâm thức định. Nơi đoạn kết-thúc, Bồ-tát đọc bài kệ dài, trong ấy có mấy câu:
“Kiếp-nghiệp đương đầu.
Cảnh-tích phổ-giác.
Khổ-hải từ-hàng.
Vô-linh thối-khước”.
Ðại-ý của đức DI LẶC bảo, ở trần-giới tam tai tiểu-kiếp đã bắt đầu, gồm các nạn: Ðói-khát, tật-dịch và chiến-tranh. Bồ-tát khuyên thiền-sư và những hành-giả đạo Phật, nên làm chiếc thuyền từ trong biển khổ, nhắc-nhở chúng-sanh thức-tỉnh trước các tai-nạn ấy, mà gắng lo tu-hành, đừng để thối-chuyển ...Nói khái-quát, đi sâu vào thời mạt-pháp, chúng-sanh nghiệp nặng, thế-giới nạn-tai, cảnh nước lửa lầm-than đã hiện ra trước mắt. Thời buổi nầy, thật ra còn không nên có sự phân-biệt giữa các tôn-giáo, huống chi trong các môn phái đạo Phật! Hiện nay các đạo đều thi nhau đóng con thuyền tế-độ giữa cảnh sóng-gió, trầm-luân. Thần-đạo thì độ thuộc-phái trở về cảnh-giới Thần. Tiên-đạo thì độ các người có căn Tiên.
Còn Phật-đạo, tất phải khuyên kẻ hữu-duyên về nơi Phật-cảnh.
6.- VÀI ĐIỀU KẾT-YẾU
Qua trên, Tệ-nhơn đã trình-bày môn Tịnh-độ qua bốn yếu-điểm, rồi luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay, khái-lược các điều quan-yếu, để phụng-khuyến đồng bạn trong biển mê tối trầm-luân, cùng hướng bước về nẻo sáng-suốt an-lành của pháp-môn Tịnh-độ. Đó là phần lý-thuyết, còn phần thực-hành sẽ có NGHI-THỨC ở chương sau.
Trong khi trình-luận, có mấy điểm đề-cập đến giới-hạn giữa TỊNH và THIỀN, cũng bởi-vì lý-do bất đắc-dĩ và cần-thiết:
“Vì một ít vị học Thiền, bài-bác việc tụng-kinh, niệm Phật qua nhiều điểm, khiến đa-số Phật-tử bối-rối hoang-mang hỏi đến, nên bất đắc-dĩ phải biện-minh.
Vì nương theo gót từ-bi của Phật và chư Tôn-đức, đã nói về pháp hợp thời-cơ để làm lợi-ích cho người học-đạo, nên cần-thiết phải giải-thích. Bởi nếu nói pháp chẳng hợp cơ, tất chúng-sanh chìm trong bể-khổ.”
“Thuyết pháp bất đậu cơ,
Chúng sanh một khổ hải. ”
Thật ra, tệ-nhơn rất thích Thiền-tông và có-thể bảo là có căn-cơ về môn ấy. Nói mến-thích, vì Thiền-tông có những đặc-điểm của nó. Chẳng-hạn như, khi học-giả đến hỏi một Thiền-sư: Thế nào là đạo ?
Sư đáp:
“Một áng khói mây phong cửa động,
Muôn chim về tổ chợt mê đường!”
Chỉ dùng hai câu vừa văn-nhã, vừa giản-dị bao-quát để phá những khái-niệm phân biệt về đạo, đưa vào chân-tâm, Thiền-tông đã tỏa ra một hương vị thanh-thoát. Lại như câu chuyện, khi ngài Pháp-Nhãn hỏi Như-Tắc Thiền-sư: Sao chưa từng thấy giám-viện phỏng-đạo ?
Như-Tắc đáp, Tôi đã có chỗ sở-nhập do sư Thanh-Lâm khai-thị, vì khi tôi hỏi: Thế nào là Phật ?
Thanh-Lâm đáp: “Bính-Ðinh đồng-tử đi tìm lửa”. Ngài Pháp-Nhãn bảo: “Khá hay! Nhưng e ông chưa hiểu, vậy thử tỏ bày chỗ kiến-giải xem sao ?
Như-Tắc thưa: “Bính, Ðinh (là hai can trong thập can) thuộc hành HỎA, tức là lửa, đem lửa tìm lửa, cũng như chính mình là PHẬT mà lại đi tìm PHẬT”. Pháp-Nhãn nói: “Quả-nhiên Giám-viện hiểu sai rồi !” Như-Tắc không tỏ ra sắc giận, quay mình bỏ đi. Ngài Pháp-Nhãn bảo thị-giả: “Người nầy nếu trở lại thì cứu được, bằng không chắc chẳng thể cứu-độ”. Như TẮC Thiền-sư đi nửa đường, bỗng suy nghĩ: “ Ông ta là bậc Thiện tri-thức của đại chúng gồm 500 vị, chẳng lẽ lại trêu mình ?”. Liền trở lại, sám-hối cầu khai-thị.
PHÁP-NHÃN bảo đề khởi lại câu hỏi trước. Sư liền đảnh-lễ thưa : “Bạch Tôn-đức, thế nào là PHẬT ?” PHÁP-NHÃN đáp: “BÍNH-ÐINH đồng-tử đi tìm lửa!”. Nghe xong NHƯ-TẮC chợt tỏ ngộ.
Lối giải đáp của ngài PHÁP-NHÃN là đúng ngay ý-thức tìm cầu về Phật đã có sẵn của NHƯ-TẮC thiền-sư, hốt-nhiên đưa sư đi thẳng vào cảnh-giới siêu-thức. Cảnh-giới tỏ-ngộ ấy sâu hay cạn và như thế nào, đều không phải lời nói, tâm-tư mà có thể đến được, chỉ do đương-nhơn tự biết lấy, như chính mình thể-nhận khi uống nước hoặc nóng hoặc lạnh mà thôi. Và đây cũng lại là một hương-sắc thơm đẹp của bên Thiền.
Còn nói có căn về Thiền, vì tệ-nhơn lúc trẻ tuổi đang trên đường học đạo, một hôm đứng tựa gốc cây, bỗng-nhiên muôn niệm đều tiêu-tan, tâm cảnh thoạt vào cõi rất mực an-tĩnh, nhẹ-nhành, sáng-suốt. Cảnh thoát trần không thể diễn-tả ấy, chỉ kéo dài không đầy năm phút. Khi hoàn lại trạng thái cũ, Tệ nhơn suy-nghĩ biết đó là túc-tập về tu Thiền trong một tiền-kiếp của mình. Từ ấy hằng ưa-thích thiền tĩnh-tọa. Trên bước tu, tuổi càng lớn, sự lịch-duyệt càng sâu, tự xét mình thiện căn tuy có song hoặc-nghiệp còn nhiều, lối luận-thuyết cao-siêu, sự hiểu biết chút ít về đạo, không thể đưa đến chỗ giải-thoát được. Do đó lần-lần hướng về Tịnh-độ, sám-hối, niệm Phật, cầu nguyện lực của Như-Lai hộ trì, tiếp dẫn.
Ðến nay, Thành-thật mà nói: “Gương tánh hãy mờ, gót tu chưa ổn, căn-thân chẳng tịnh, hạnh-kiểm còn sơ”. Soi gương Bá-Ngọc, hơn 50 vẫn còn thấy lỗi-lầm. Hướng gót Triệu-Châu, tuổi 80 còn mong học hỏi. Với danh-phận xuất-gia, tự thấy còn chưa xứng-đáng, chẳng qua trên cương-trường hoằng-hóa, phải cố-gắng đóng cho trọn vai-tuồng của mình đó thôi. Nhìn về tương-lai, Xét về bổn-phận, Xin mượn hai câu sau đây để tự diễn-tả:
Quý Tử áo thô nhiều vẻ thẹn,
Lưu-lang suối cũ luống bàng-hoàng!
CHƯƠNG II
NGHI THỨC MẬT TÔNG
Từ đây trở về sau, những đoạn nào có kép vòng đơn ( ), là các điều căn-dặn hoặc dẫn-giải, in bằng chữ nghiêng. Chữ lớn thẳng là phần xướng-tụng hành-trì. Trải nhiều năm kinh-nghiệm, tệ-nhơn xét thấy các hành-giả thời nay có những ma-chướng, mà đạo-lực kém-yếu của phần đông người thời mạt-pháp khó nổi vượt qua. Ðó là những ma-chướng nội-tâm, ma-chướng ngoại-cảnh và ma-chướng thuộc giới vô-hình. Vì thế, sau khi nghiên-cứu trong Ðại-tạng, tệ-nhơn đã dựa vào kinh-nghiệm của chính mình và nhiều hành giả khác thuật lại, dung-hợp môn tu Tịnh-độ thuộc Mật-giáo cùng Hiển-giáo soạn ra nghi-thức nầy.
Trong đây chú-trọng về sự khái-quát đơn-giản, lời gọn mà ý-tứ đầy-đủ. Pháp-nghi nói sau chia ra làm ba phần:
1. Lễ bái sám hối
2. Trì chú niệm Phật
3. Phát nguyện hồi hướng
Xin lưu-ý, Pháp-nghi chỉ là hình-thức, là khuôn-mẫu, để cho “hành-giả” nương vào nơi sự-tướng mà tiến-tu, mà hướng về chơn-cảnh. Còn tiến-trình sâu hay cạn, thấp hay cao, công-đức ít hoặc nhiều , còn tùy tâm chí-thành, sức trì-niệm của các hành-giả.
1. - PHẦN LỄ-BÁI SÁM-HỐI
( Trước tiên rửa tay, rửa mặt, lễ phục nghiêm-chỉnh. Khi đến nơi lễ tụng, Hành-giả dùng ẤN KIẾT-TƯỜNG, tay trái ngón cái nắm co đầu ngón vô danh, vẽ và tưởng chữ RAIN (RĂN)
sắc trắng trong lòng tay mặt 3 lần. Rồi tay mặt cũng kiết ấn vẽ vào lòng tay trái y như vậy. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui đứng chấp tay trước bàn Phật, đọc bài kệ tán)
Sắc thân PHẬT mầu đẹp,
Trong đời không ai bằng.
Khó sánh-ví, nghĩ bàn!
Nên nay con đảnh-lễ.
Sắc thân PHẬT vô-tận,
Trí-huệ cũng như thế.
Tất-cả pháp thường-trụ,
Nên nay con quy-y.
Bi, trí, nguyện-lực lớn,
Ðộ khắp cả hàm-linh.
Khiến bỏ thân phiền-não,
Sanh về cõi thanh-lương.
Nay con tịnh ba nghiệp,
Quy-y và lễ tán.
Nguyện cùng các hữu-tình,
Ðồng sanh về Cực-lạc.
(Hành giả có thể đọc bài kệ tán khác mà mình thích)
PHỔ-LỄ CHƠN-NGÔN
UM! VA JI RA VẮT (7 lần)
( AUM ! VÀJRA VÃT)
( Trong khi tụng chú, kiết ẤN KIM-CANG HIỆP-CHƯỞNG để trên đầu, chấp hai tay lại ngón so le, hữu áp tả. Theo Mật-giáo, nên tưởng mình hiện thân khắp pháp-hội 10 phương, lễ kính chư PHẬT. Xong xả ấn ngay nơi đảnh.)
1. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Hoằng-dương môn TỊNH-ÐỘ, THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT, Trăm ngàn ức hóa-thân, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
2. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Thường-tịch quang Tịnh-Ðộ, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Pháp-thân mầu thanh-tịnh, Khắp pháp-giới chư Phật. (1 lạy)
3. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Thật-báo trang-nghiêm độ, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Thân tướng hải vi-trần, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
4. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Phương-tiện Thánh cư độ, A-Di-ÐÀ Như-lai, Thân trang-nghiêm giải-thoát, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
5. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc Phương Tây, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Thân căn-giới đại-thừa, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
6. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc Phương Tây, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Thân hóa đến mười phương, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)
7. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, Giáo, hạnh, lý ba kinh, Y chánh đều tuyên-dương, Khắp pháp-giới tôn PHÁP. (1 lạy)
8. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, QUÁN THẾ-ÂM Bồ-tát, Thân tử-kim muôn-ức, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)
9. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, ÐẠI THẾ-CHÍ Bồ-tát, Thân, trí sáng vô-biên, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)
10. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, VĂN-THÙ Ðại Bồ-tát, Thân thị-hiện Trí-mầu, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)
11. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, PHỔ-HIỀN Ðại Bồ-tát, Thân hạnh, nguyện sát-trần, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)
12. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, Thanh-Tịnh Ðại-hải chúng, Thân phước-trí trang-nghiêm, Khắp pháp-giới thánh-chúng. (1 lạy)
(Kế tiếp, quỳ trước bàn Phật, chấp tay, chí-thành, đọc bài kệ Sám-hối)
Quy-mạng mười phương PHẬT,
Tôn PHÁP, hiền-thánh TĂNG,
Tam-thánh cõi Cực-Lạc,
Xin thương-xót chứng-minh,
Vô-thỉ kiếp đến nay,
Con mê lạc luân-hồi.
Do bởi tham, sân, si,
Từ nơi thân, khẩu, ý.
Tạo tứ-trọng, ngũ-nghịch,
Thập ác, vô-biên tội.
Nay đem tâm chí-thành,
Tỏ bày cầu sám-hối.
Nguyện nhớ sức gia-trì,
Thân-tâm đều thanh tịnh.
Xin phát đại Bồ-đề,
Ðộ mình, người giải-thoát.
NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT. (3 lần)
(Đứng lên chấp tay xướng)
Ðệ-tử Sám-hối, phát-nguyện rồi, chí-tâm đảnh-lễ Tam-bảo. (1 lạy)
2.- PHẦN TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT
( Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật. Tịnh tâm trong giây phút, rồi Tưởng chữ RĂN sắc Trắng trên đầu, phóng ánh sáng Đỏ.)
( Kế dùng ấn Kiết tường Viết và Tưởng chữ RĂN cùng chữ HÙM cũng đều sắc Trắng, gia trì Hai lòng bàn tay và Chuỗi, mỗi nơi ba lần.
Lại tiếp dùng ấn Kiết tường, gia trì SỔ CHÂU chân ngôn sau đây nơi tràng Chuỗi, xong búng Ba cái, xả ấn trên Đảnh.)
GIA TRÌ SỔ CHÂU CHÂN NGÔN
UM! VAI RÔ CA NA MA RA XÓA HA (7 lần)
(AUM! VAIROCANA MARA SVÀHÀ)
( Xả ấn xong, vẫn ngồi chắp tay tụng bài Hương tán)
Nguyện mây hương mầu này,
Hiện khắp mười phương cõi.
Tất cả các Phật độ,
Vô lượng hương trang nghiêm.
Đầy đủ Bồ Tát đạo,
Thành tựu Như Lai hương.
Nam mô Hương Vân cái Bồ Tát ma ha tát (3 lần)
(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)
Quang, thọ khó suy lường,
Sáng lặng khắp mười phương.
Thế Tôn Vô Lượng Quang,
Cha lành cõi Liên ban.
Thần lực chẳng tư nghì,
Sống lâu A tăng kỳ.
A Di Đà Như Lai,
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh,
Công đức lạ trang nghiêm.
Nơi tất cả quần sanh,
Vượt lên ngôi Bất thối.
Mười phương hằng sa Phật.
Đều ngợi khen Vô Lượng.
Cho nên hôm nay con,
Nguyện sanh về An Dưỡng.
Nam mô Liên trì hải hội Phật Bồ Tát. (3 lần)
(Tiếp tụng)
PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN
UM ! SOA PHẠ VA SUÝT ĐA, SAT VA ĐẠT MA,
SOA PHẠ VA SUÝT ĐA HÀM.
UM ! RĂN RĂN RĂN.
(7 lần)
( AUM! SVABHÀVA SUDDHA, SARVA DHARMA,
SVABHÀVA SUDDHA HÀM.
AUM! RAIN RAIN RAIN.
Khi tụng chú này, kiết Chuẩn Đề biệt ấn. Cả hai tay, ngón cái nắm co ba ngón: trỏ, vô danh và út. Kế hiệp hai lại, hai ngón giữa dụm đầu nhau dựng đứng. Tụng xong xả ấn nơi đảnh.
Đây là phối hợp chú Tịnh tam nghiệp và Tịnh pháp giới. Chân ngôn này có công năng khiến cho bên trong: thân, khẩu, ý, y phục, bên ngoài từ chỗ ở của mình đến hoàn cảnh rộng xa đều thanh tịnh. Do chú này, tội chướng đều được tiêu trừ, có thể thành tựu các việc thù thắng.)
HỘ THÂN CHƠN NGÔN
UM ! VA JI RA, A NGHĨ NI, BÁ RA NĂM BÌ ĐÁ DA, XÓA HA.
UM ! XỈ RĂN, XỈ RĂN, XỈ RĂN.
(7 lần)
( AUM! VAJRA ANGI PRA NÀMBIDHÁYA SVÀHÀ.
AUM! SRAIN SRAIN SRAIN.
Khi tụng chú này, kiết ấn Bị giáp hộ thân, Hành giả xoa hai tay vào trong, hữu áp tả, hai ngón giữa dựng đầu dính vào nhau, hai ngón cái áp vào ngón vô danh. Hai ngón trỏ cong lại như lưỡi câu, những không đụng vào lưng hai ngón giữa.
Đây là phối hợp chú hộ thân trong nghi Thập bát đạo và Mạn Thù Nhất Tự chân ngôn, khi kiết tụng ấn chú này, thân của đương nhơn liền được mặc giáp trụ. Tất cả loài ma làm chướng ngại, bỗng thấy hành giả oai đức tự tại, ánh sáng bao phủ chói ngời, liền tan rã bỏ chạy. Sức chân ngôn nầy có thể bảo về được bản thân và tất cả mọi người quanh. Các ách nạn như: nước, lửa, cọp, sói, sư tử, dao gậy, gông xiềng thảy điều tiêu diệt. Khi tụng chú này xong 7 biến liền xả ấn nơi đảnh.
Kế hai tay đều kiết ấn Kim cang quyền, ngón cái bấm vào gốc ngón vô danh, nắm chặt lại. Rồi đem ấn in vào các nơi: trán, yết hầu, hai vai, ngực, rún, hai bắp đùi, sau thận môn, xương gu cổ và đảnh rồi xả ấn. Trong khi ấy miệng tụng chữ Hùm liên tiếp, cho đến khi xả ấn rồi mới thôi. Đây là pháp thức trấn tà ma không cho xâm nhập vào thân.)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(54 hoặc 108 lần)
( NAMO RATNATRÀYAYA.
NAMO ÀRYA AMITABÀYA. TATTHÀGATAYA. ARAHATI. SAMYAKSAMBUDDHAYA. TADYATHÀ !
AUM ! AMIRTI, AMIRTA NABÀVE. AMIRTA SAMBÀVE, AMIRTA GABE, AMIRTA SUDDHE, AMIRTA SITE, AMIRTÁ VICALANTE,
AMIRTA VICALANTA GÀMINI. AMIRTA GAGANA KITICALI, AMIRTA LODO VISABHALI. SARVARITHA SADDHÀNI, SARVA MACALI. SAKSA YÙKALI. SVÀHÀ.
AUM ! BHRUM, HÙM.
Khi tụng chân ngôn này, kiết ấn Vô Lượng liên hoa. Hai xoa bên ngoài hữu áp tả. Dựng hai ngón giữa đầu dụm cong lại như cánh sen. Có thể kiết ấn này tụng chân ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số. Đà ra ni này, tụng một biến, diệt các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác trong tự thân, tất cả tội chướng đều tiêu diệt.
Nếu hàng xuất gia tăng ni, hoặc tại gia thiện tín, phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Khi kiết ấn tụng chơn ngôn nầy, liền cảnh giác đức Vô Lượng Thọ Như Lai phóng quang trụ nơi đảnh của hành-giả, và được sự nhiếp thọ. Tụng đến một vạn biến, Tâm bồ đề hiển hiện trong thân không quên mất.
Người trì niệm lần lần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng mát mẻ trong sạch như trăng thu, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả thấy Phật A Di Đà cùng với vô lượng trăm ức chúng Bồ Tát vây quanh đến an ủi tiếp dẫn. Đương nhơn liền sanh về phẩm Thượng thượng ở Cực Lạc.
Câu: “UM! BÚT RUM! HÙM!” là chân ngôn “Nhứt Tự chuyển luân”, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo. Các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú nầy.
Tệ nhơn vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.
Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề. Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.
Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.
Tụng chân ngôn xong, tiếp chắp tay đọc bài kệ khen tướng hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.)
Thân Phật Di Đà vàng rực rỡ,
Tuyệt vời tươi đẹp tướng trang nghiêm.
Năm Tu Di uyển chuyển ngọc hào,
Bốn đại hải biếc xanh liên mục.
Vô biên hóa Phật cùng Bồ Tát,
Hiện đầy trong ánh diệu quang-minh.
Nguyện lành bốn tám độ hàm-linh,
Chín phẩm sen vàng sanh Cực Lạc.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, Đại từ đại bi,
Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.
(Kế tiếp niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật
( Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.
Về cách trì niệm, tệ nhơn lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.
2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.
4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, tệ nhơn đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)
3.- PHẦN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A Di Đà Phật (10 lần)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (10 lần)
Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát (10 lần)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Nay con trì chú xưng niệm Phật,
Thệ phát lòng bồ đề rộng lớn.
Cúi xin xót thương nhiếp thọ con,
Chứng minh sám hối và sở nguyện.
Về trước đến nay con tạo ác,
Đều do vô thỉ tham, sân, si.
Từ thân, miệng, ý phát sanh ra,
Tất cả chí tâm xin sám-hối.
Chúng sanh vô biên thề nguyện độ,
Phiền não vô tận thề nguyền dứt.
Pháp môn vô lượng thề nguyền học,
Phật đạo vô thượng thề nguyền thành.
Con nguyện lâm chung dự biết thời,
Dứt trừ tất cả điều chướng ngại.
Diện kiến Tây phương Tam Thánh tôn,
Liền được sanh về cõi Cực Lạc.
Xin đem công đức trì niệm nầy,
Hồi hướng bốn ân và ba cõi.
Nguyện khắp pháp giới các chúng sanh,
Đều sanh Cực Lạc thành Phật đạo.
( Năm bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Nam mô Ta Bà giáo chủ, Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Tây phương Cực Lạc thế giới, Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ Tát, thập phương tam thế biến pháp giới Tam Bảo.
(Lễ ba lạy lui ra)
CHUNG
UM! BÚT RUM! HÙM!
Comments
Post a Comment