KHAI THỊ “ KINH THỦ LĂNG NGHIÊM” 

(của HT. THÍCH THIỀN-TÂM)

 

Đức Phật nói: “Lành thay! A-Nan, các ông nên biết tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay chịu sanh tử tương tục do vì không nhận ra “CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ”, thể tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà nhận lầm các vọng tưởng. Các vọng tưởng này vốn chẳng chân thật, thế nên bị luân chuyển.”

 

Nay ông muốn thấu rõ quả vị vô thượng bồ-đề và phát minh chân tánh, ông phải dùng trực tâm đáp ngay lời Như Lai hỏi. Mười phương Như Lai ra khỏi sinh tử, đều nhờ trực tâm. Do tâm và lời nói đều ngay thẳng như thế, đến khoảng thời gian trước, sau, và thời kỳ trung gian tuyệt nhiên không có lời nói quanh-co.

 

A-Nan, nay tôi hỏi ông: “Ngay khi ông vừa mới phát tâm là do ông thích 32 tướng tốt của Như Lai, Vậy ông lấy gì để thấy và ông ưa thích cái gì? A-Nan thưa: “Bạch Thế Tôn! Sự yêu thích như thế là do TÂM và MẮT của con. Do mắt thấy tướng thù thắng của Như Lai nên tâm ưa thích và phát tâm nguyện xả bỏ sinh tử.”

 

Đức Phật bảo A-Nan: “Như ông nói, thật chỗ yêu thích là do tâm và mắt. Nếu ông không biết tâm và mắt ở đâu thì không thể nào hàng phục được trần lao.”

 

Ví như quốc vương, khi có giặc đến xâm chiến nước mình, muốn phát binh đi trừ dẹp, thì cần phải biết giặc ở nơi đâu.

 

Lỗi lầm là ở tâm và mắt khiến ông bị lưu chuyển. Nay tôi hỏi ông, riêng TÂM và mắt nay ở chỗ nào?

 

(KINH LĂNG NGHIÊM)

 

 

Mỗi câu tràng hạt (THỦ NHÃN) Phật là tâm

Phật rõ là tâm, uổng chạy tìm!

Bể Phật dung hòa tâm với cảnh

Trời tâm bình đẳng Phật cùng sanh

 

Bỏ tâm theo Phật còn mơ mộng

Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.

Tâm, Phật nguyên lai đều giả huyễn

Phật, tâm đồng diệt đến viên thành.

 

(NIỆM PHẬT THẬP YẾU- HT. THÍCH THIỀN-TÂM) 

 


NGHI THỨC MẬT TÔNG


TÂY PHƯƠNG NHỰT KHÓA


 

Chớ quản gió-sương sông-núi cách,

Hoa sen Bảo-Tích sắc hương-mầu.

 

 

 I. LỜI PHI-LỘ VÀ PHỤNG-KHUYẾN

 

1. Thích ứng cả ba căn

2. Gồm tự-lực, tha lực

3. Giải thoát ngay trong hiện-kiếp

4. Hợp với thời-tiết, cơ-duyên

5. Luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay

6. Vài điều kết yếu

 

 

II. NGHI THỨC MẬT TÔNG

 

1. Lễ bái sám hối

2. Trì chú niệm Phật

3. Phát nguyện hồi hướng

 

 

 

CHƯƠNG I

LỜI PHI-LỘ VÀ PHỤNG-KHUYẾN

 

Hiện nay, Người tu Tịnh-độ càng ngày càng đông. Sở-dĩ như thế, bởi vì môn Niệm-Phật có những yếu-tố :

 

1) Thích ứng cả ba căn

2) Gồm tự-lực, tha lực

3) Giải thoát ngay trong hiện-kiếp

4) Hợp với thời-tiết, cơ-duyên

5) Luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay

6) Vài điều kết yếu

 

 

1.-  NIỆM-PHẬT THÍCH-ỨNG CẢ BA CĂN

 

           Các pháp-môn khác, nếu như thấp thì bậc THƯỢNG-CĂN chẳng thích tu, và nếu như cao tất các bậc TRUNG, HẠ-CĂN không kham tu.

 

           Chẳng hạn như về THIỀN-TÔNG, thì đạo-lý thật mầu-nhiệm cao-siêu, một niệm đi thẳng vào chân-tâm sáng-suốt, ứng-dụng tự-tại, vượt khỏi đầu sào trăm trượng, như nhạn bay giữa thái-hư dấu-vết chẳng còn lưu.

 

           Nhưng khúc điệu càng cao, người họa lại càng thêm thưa ít. Nếu chẳng phải bậc Huệ-căn gieo sẵn, chỉ e cho vẽ cọp không thành.  

 

Nên cổ-đức đã bảo:

 

Chẳng phải căn thượng-thượng,

Dè-dặt chớ khinh-truyền.”

 

(Phi thượng-thượng căn,

Thận vật kinh hứa ).

 

           Bởi nếu không phải là bậc THƯỢNG-CĂN triệt-ngộ thiền-cơ thì chẳng thể nhập được ngay vào chân-không, mà phần nhiều lại lạc vào lối chấp thiên-không.  Rồi từ đó bác phá nhân-quả, sự tướng, tăng lòng ngã-mạn, cống-cao.

 

           Về điều nầy trong bài CHỨNG-ÐẠO-CA, VĨNH GIA  HUYỀN-GIÁC thiền sư có nói:

 

"Nếu chấp cái không trống-rỗng,

rồi bác phá nhân-quả thì ương-họa lan-tràn !".

 

 (Hoát-đạt không, Bác nhân-quả,

 Mãng-mãng, đảng-đảng chiêu ương-họa !).

 

           Thật ra THIỀN-TÔNG cần phải duy-trì và phục-hưng, cho chúng-sanh được độ-thoát an-vui, vườn hoa Phật-giáo thêm thắm-tươi đầy đủ màu-sắc hơn. Nếu có bậc tu THIỀN chân chánh làm lợi-ích cho mình và người, cũng đáng nên cúi đầu đảnh-lễ. Rất tiếc nhiều kẻ mới vào cửa mầu THIỀN học, liền chuộng những huyền-lý cao siêu, vội xem thường sự: Thờ cúng, Tu phước, Giữ giới, Sám hối, Tụng kinh, cho là hành-môn thấp nhỏ, chấp-trước sự-tướng.

 

Cảnh-trạng một kẻ mê đường dẫn nhiều người lạc lối, khiến cho ngay những bậc tôn-đức bên THIỀN trông thấy cũng thê-lương cho Phật-pháp, xót-dạ, đau lòng !

 

           Nếu huyễn-sắc tức là chân-không thì dù tham THIỀN, niệm PHẬT, tụng KINH, hay hành-trì tất-cả sự-tướng trong đạo-pháp, cũng đều là chân không.  Bậc liễu-đạt tùy-niệm ứng-dụng tự-tại không dính-mắc, như trái hồ-lô lăn tròn trên mặt nước, can chi mà phòng-ngại!

 

           Cho nên chư Cổ-đức bên THIỀN đã cảnh-giác: " THIỀN-TÔNG nếu đi đúng tất mau chứng-quả BỒ-ÐỀ, còn lạc lầm thì đọa vào địa-ngục như tên bắn !". Các Pháp-môn cao, với bậc THƯỢNG-CĂN mới được sự lợi-ích thiết-thật LÀ NHƯ THẾ ẤY.

 

          Còn môn TỊNH-ÐỘ thì thích ứng tất cả  ba căn-cơ: THƯỢNG, TRUNG, HẠ. Bậc THƯỢNG-THƯỢNG căn như các ngài:  VĂN-THÙ, PHỔ-HIỀN, LONG-THỌ, TRÍ-GIẢ và các bậc cao-đức khác nữa xưa nay, phần nhiều đều tu về môn nầy.

 

           Như trong kinh HOA-NGHIÊM, THIỆN-TÀI đồng-tử khi đi tham-phỏng bậc tri-thức đầu tiên là ÐỨC-VÂN BỒ-TÁT, ngài ÐỨC-VÂN đã đem môn NIỆM-PHẬT TAM-MUỘI mà truyền dạy. Ðến lúc cuối cùng, PHỔ-HIỀN đại sĩ cũng nói MƯỜI ÐẠI NGUYỆN vương, khuyên THIỆN-TÀI và chư-vị Bồ-tát trong Hoa-tạng Hải-hội niệm Phật hồi-hướng về CỰC-LẠC. Do đấy, nên bảo niệm PHẬT là pháp-môn thấp kém, chỉ để cho hạng tầm-thường, ngu-dốt tu, là quan-niệm rất sai lầm!

 

           Ðến như bậc hạ-căn, thì trong TỊNH-ÐỘ THÁNH-HIỀN LỤC đã ghi chép các sự-tích. Kẻ ngu-muội dốt-nát, phá-giới phạm-trai, nghèo khổ tật-nguyền, cho đến loài chim theo lời người dạy xưng danh-hiệu Phật, biết hồi-tâm sám-hối, trì-niệm chuyên-thành, đều được nguyện lực của PHẬT nhiếp-thọ, tiếp-dẫn sanh về Cực-lạc. Cho nên một bậc danh-đức xưa đã khen  môn Tịnh-độ là:

 

“Bảo-phiệt ra khỏi Ta-bà,

Huyền-môn để thành Phật-đạo”.

 

(Xuất Ta-bà chi bảo-phiệt,

Thành Phật-đạo chi huyền-môn).

 

Cũng  trong ý đó, Ấn-Quang Ðại-sư có câu đối :

 

“Bỏ đường tắt Tây-phương, chín giới chúng-sanh,

trên khó thể viên-thành quả-giác.

Lìa cửa mầu Tịnh-độ, mười phương chư PHẬT,

dưới không toàn độ thoát loài-mê”.

 

Nói theo kinh:

 

“Pháp-môn  niệm-Phật,

Quả thật như chiếc lưới báu cực to,

Có thể vớt tất-cả các loài cá lớn nhỏ trong tam-giới,

Đưa lên bờ Niết-bàn vậy”.

 

 

2. - NIỆM-PHẬT GỒM TỰ-LỰC VÀ THA-LỰC

 

           Trừ hai pháp-môn TỊNH-ÐỘ và MẬT-TÔNG, các pháp-môn khác đều nương vào nơi TỰ-LỰC, tức là sức tu của chính mình, để cầu giải-thoát. Luận riêng về TỊNH-ÐỘ, thì môn nầy gồm cả "Tự-lực" và "Tha-lực". Tự-lực là sức trì-niệm của riêng mình; Tha-lực là sức nhiếp-thọ hộ-niệm trong hiện-tại và sự tiếp-dẫn vãng-sanh của PHẬT khi lâm-chung.

           Có người bảo người Tu môn niệm PHẬT là hèn-yếu, chỉ ỷ-lại vào tha-lực, cũng  là quan-niệm cạn-cợt, sai-lầm.

           Hành-giả Tịnh-độ Thân lễ-kính PHẬT, Miệng xưng danh PHẬT, Ý chuyên tưởng PHẬT,  nhiếp-tâm từ LOẠN vào ÐỊNH, cho đến cả khi ÐI, ÐỨNG, NẰM, NGỒI. Vận-dụng cả ba nghiệp để hành-trì, cố-gắng hết sức mình, đó là chứng-minh thực-tế và hiển-nhiên về Tự-lực.

           Như thế, tại sao lại bảo rằng niệm PHẬT là hèn-yếu, chỉ ỷ lại vào tha-lực ?

           Cho nên, niệm-PHẬT chính là đem hết tự-lực của mình để cảm thông với tha-lực của PHẬT, cứu-cánh là dung-hòa TỰ với THA, TÂM và PHẬT, đi sâu vào CHÁNH ức NIỆM Tam-muội.  Bước đầu tiên khi đã có sự cảm thông, thì hành-giả sẽ được Phật phóng quang-minh thường-trụ nơi đảnh nhiếp-thọ, hiện-tiền tiêu-trừ tội-chướng tai bịnh, phước-huệ lần-lần tăng, khi mãn-phần lại được tiếp-dẫn sanh về Cực-lạc.

           Sỡ-dĩ người xưa nay khi đề-cập đến môn Tịnh-độ, phần nhiều nhấn-mạnh về Tha-lực, đó là hàm-ý chú-trọng sự tiếp-độ đến chỗ giải thoát. Vì nếu không được sức Phật nhiếp-thọ tiếp-dẫn, thì đạo lực tầm-thường của hành-giả không thể sanh về cõi Cực-lạc cách đây mười muôn ức Phật độ.

Bởi dù cho đạo lực của lục-thông La-Hán, cũng chỉ ở phạm-vi thấy biết, dạo đi trong cõi Tam-thiên đại-thiên, thuộc thế giới Ta-bà nầy mà thôi.  Và khi còn hoặc-nghiệp mà không được tiếp-dẫn vãng-sanh Cực-lạc, bước lên cảnh-giới Bất thối-chuyển, nương nơi thắng-duyên của cõi ấy mà tiến-tu, tất phải tùy nghiệp chịu cảnh luân-hồi, không biết chừng nào mới được giải-thoát !

           Vì sự vãng-sanh có điểm rất quan-hệ như vậy, nên Tha-lực của Tịnh-độ được chú-trọng nhiều, khiến cho kẻ nông-cạn vội nhận lầm là môn nầy chỉ ỷ-lại vào nơi Tha-lực, không cần tự lực.

 

           Ðến đây, thấy nên giải-thích thêm vài ba nghi-vấn. Có kẻ nói:

 

“Bậc Bồ-tát chứng vô-sanh nhẫn đã dứt hoặc-nghiệp, thoát khỏi luân-hồi, cần chi phải cầu về Cực-lạc ? Và  các vị ấy có thần thông đi đến vô-lượng thế-giới, lại cần chi niệm Phật để cầu sự tiếp-dẫn ?”

          

Xin đáp, theo kinh nói:

 

"Sự cất chân lên để bước xuống của PHẬT, bậc Ðẳng-Giác Bồ-tát còn không hiểu-thấu, huống chi hàng Thập-địa Bồ-Tát ! Các vị ấy tuy dứt kiến tư và trần-sa hoặc, song Vô-minh hoặc hãy còn, nên cần phải gần-gũi PHẬT để học đạo-pháp thành PHẬT. Thật ra, chư đại Bồ-tát có hai việc: Trên cầu về mười phương Tịnh-độ để học vô-lượng pháp-môn của Như-Lai, Dưới hiện thân khắp mười phương uế độ để giáo-hóa các loài hàm-thức.

           Pháp-thân của chư vị thường-trú, tuy ở cõi Tịnh mà không lìa cõi uế, và dù ở uế-độ vẫn không rời khỏi Tịnh-độ. Còn việc Bồ-tát niệm Phật để cầu tiếp-dẫn, ví như một học-giả đến viếng bậc Thầy của mình, tuy có thể tự-tại đi vào nhà, nhưng theo lễ phải xin phép.  Và vị Thầy đúng theo tâm-niệm dìu-dắt hàng hậu-lai, cũng vui vẻ tiếp đón. Việc như Bồ-tát muốn về Cực-lạc, niệm hồng-danh Phật để cần-cầu, và Đức Phật tùy bản-nguyện, đến tiếp dẫn cũng lại như thế.

           Nhưng Sự tiếp-dẫn của Phật tùy-niệm ứng-hiện, trong một sát na có thể đồng-thời đến vô-biên thế-giới ở mười phương, tiếp-dẫn số chúng-sanh như vi-trần, như gương trăng sáng hiện bóng khắp các điểm nước, sông, hồ, đâu có tướng đến đi và đâu có chi nhọc-mệt mà phòng-ngại!”.   

 

  

3.-  NIỆM-PHẬT GIẢI-THOÁT NGAY TRONG HIỆN-KIẾP

 

           Với các pháp-môn khác, hành-giả phải dứt trừ hết hoặc-nghiệp mới vượt sự sống-chết, luân-hồi. Riêng môn Tịnh-độ, dù cho hoặc-chướng hãy còn, vẫn có thể hiện-đời nương nơi nguyện-lực của PHẬT, đới-nghiệp vãng-sanh, tiến thẳng lên bờ giải-thoát. Về điểm nầy, trong bức thư phúc-đáp cho TỊNH-TU pháp sư, ngài ẤN-QUANG đã nói như sau:

 

"Có hai đường tiến đến chổ giải-thoát là: THÁNH-ÐẠO và VÃNG-SANH.

 

            Về THÁNH-ÐẠO, tức đường tu chứng lên quả THÁNH không chi thẳng tắt mau lẹ hơn môn "Trực-chỉ thiền".  Nhưng tu Thiền giữa thời buổi nầy, trong hiện đời chưa dễ gì ngộ-đạo, huống chi là chứng-đạo ư ?

           Nếu như không chứng quả, trong mười người tu đã lạc-lối hết tám chin, bởi khi luân hồi sẽ bị nhiều chướng-duyên làm cho thối-chuyển, dễ mê-muội túc-căn. Tu Thiền, nếu chứng được sơ-quả Tu đà-hoàn, tuy còn 7 lần sanh lên cõi Trời, 7 phen trở lại nhơn-gian, nhưng sẽ không lo thối-chuyển.  Khi chứng đến quả A-LA-HÁN, mới dứt hẳn luân-hồi.

           Ngoài ra, thì không nhứt-định, có kẻ đời hiện-tại tu-hành rất tốt, kiếp sau được hưởng phước, say đắm theo dục-lạc, tạo nghiệp ác rồi bị đọa vào địa-ngục. Dù cho năm ba đời giữ được thiện-căn, không tạo nghiệp ác, song ai có thể bảo-đảm những kiếp về sau lại chẳng gây nghiệp rồi bị đọa tam-đồ!

           Chẳng nói đâu xa, ngay trong đời hiện-tại, rất nhiều hành-giả trước siêng-năng, sau biếng-trễ, đạo-tâm dần-dà thối-chuyển, đến nỗi có kẻ phải hoàn tục. Những đời về sau, theo đà mạt-kiếp, Phật-pháp lần suy kém, bậc thiện tri-thức rất khó tìm, sự giải-thoát lại còn xa hơn nữa!

          

            Riêng có đường lối VÃNG-SANH, là niệm PHẬT cầu về Tịnh-độ, thì dù cho hoặc-chướng hãy còn, vẫn có thể nương theo nguyện-lực tiếp-dẫn của đức A-DI-ÐÀ, vượt ngang ba cõi, đới-nghiệp thẳng sang Cực-lạc. Thật ra, cũng như bên Thiền, giữa thời Mạt-pháp nầy, người tu Tịnh-độ đến cảnh-giới "SỰ nhứt-tâm bất-loạn" rất là ít có, huống chi là cảnh "LÝ nhứt tâm", và đi sâu vào " Niệm-Phật Tam-muội"!

           Nhưng nếu thuở bình-nhựt chuyên trì-niệm, khi lâm-chung, chủng-tử của câu hồng-danh đã huân-tập từ lâu phát-hiện, liền khiến cho tạm-thời được nhứt-tâm. Lúc ấy chỉ cần gia thêm ý-niệm tha-thiết, rủ sạch trần-duyên  hướng về Liên-Quốc, quyết-định sẽ được sự cảm-thông tiếp-dẫn.

Khi đã về đến cõi ấy rồi, trên có PHẬT, Bồ-tát, dưới là các hàng Thượng thiện-nhơn, nước chảy, chim kêu, nói ra pháp-diệu, không còn bị các duyên ăn, mặc, ở và sanh-kế  (y, thực, trụ, hành) làm vướng-bận, sống lâu vô-lượng kiếp, lo chi đạo-quả không thành!  Pháp-sư đã hỏi, tôi chỉ y theo chỗ thấy hiểu của cổ-đức và căn-cứ nơi Phật-lý mà giải-đáp, "XIN SUY-GẨM KỸ RỒI TÙY-TÂM LỰA CHỌN ..."

           Lời trên đây của Ðại-sư, đã vạch rõ chỗ ổn-đáng và khó bảo đảm trên đường giải-thoát của thời nay, giữa TỊNH cùng THIỀN.

 

 

4.-  NIỆM PHẬT HỢP THỜI-TIẾT, CƠ-DUYÊN

 

           Trong thời Chánh-pháp và Tượng-pháp, con người phần nhiều nghiệp nhẹ, tâm thuần, hoàn-cảnh sinh-hoạt giữa xã-hội lại đơn-giản, có thể tu các pháp-môn về Thánh-đạo. Thời ấy, Thiền-tông đặc-biệt hưng-thạnh, hành-giả căn-cơ sang lẹ, thấy non xanh hoa-nở, nghe gió thổi suối reo đều có thể ngộ-đạo. 

Nhưng từ thời mạt-pháp về sau, nhơn tâm khác xưa, sự sinh-hoạt, tổ-chức giữa xã-hội lần-lần phức-tạp, căn-cơ người tu phần nhiều  là bậc Trung, Hạ.  Cho nên muốn bảo-đảm sự giải-thoát, cần phải hướng về pháp hợp với thời-tiết, cơ duyên là MÔN NIỆM-PHẬT. Về điều nầy, xin dẫn những chứng-liệu như sau:

 

Trong kinh "ÐẠI-TẬP NGUYỆT-TẠNG", đức Thích Tôn đã lời huyền-ký: "THỜI MẠT-PHÁP, ỨC-ỨC KẺ TU-HÀNH, SONG ÍT CÓ NGƯỜI ÐẮC-ÐẠO, CHỈ NƯƠNG THEO PHÁP-MÔN NIỆM-PHẬT MÀ THOÁT KHỎI LUÂN-HỒI." (Mạt-pháp, ức-ức nhơn tu-hành, hản nhứt đắc-đạo.  Duy y niệm-Phật, đắc độ sanh-tử).

 

Nơi kinh "VỘ LƯỢNG-THỌ", Phật cũng bảo: "TRONG ÐỜI TƯƠNG-LAI, KHI KINH-ÐẠO DIỆT HẾT, TA DÙNG SỨC TỪ-BI, THƯƠNG XÓT, RIÊNG LƯU-TRỤ KINH NẦY MỘT TRĂM  NĂM.  CHÚNG-SANH NÀO GẶP KINH NẦY, TÙY THEO SỞ-NGUYỆN, ĐỀU CÓ THỂ ÐẮC-ÐỘ."(Ðương-lai chi thế, kinh đạo diệt-tận, ngã dĩ từ-bi ai-mẫn, đặc lưu trữ kinh, chỉ trụ bá tuế.  Kỳ hữu chúng-sanh, trị tư kinh giã, tùy-ý sở-nguyện, giai-khả đắc-độ)

 Ðức Như-lai là bậc trí-huệ rộng sâu, vì sao chẳng lưu lại các pháp kia, mà chỉ lưu môn Tịnh-độ ? Ðó là thâm-ý PHẬT đã chỉ rõ : "THỜI MẠT-PHÁP VỀ SAU, ÐƯỜNG TU HỢP VỚI CƠ-DUYÊN CHÚNG-SANH, CHỈ LÀ MÔN TỊNH-ÐỘ”.

 

Nơi đoạn Minh-Giáo của AN-LẠC TẬP, Ðạo-Xước Thiền-sư có lời bình-luận : NẾU GIÁO-PHÁP HỢP VỚI THỜI-CƠ, THÌ DỄ TU, DỄ NGỘ. NHƯ GIÁO-PHÁP TRÁI THỜI-CƠ, TẤT KHÓ TU, KHÓ NHẬP. Nên Kinh Chánh-Pháp Niệm nói: " HÀNH-GIẢ KHI NHỨT-TÂM CẦU-ÐẠO, PHẢI QUAN-SÁT VỀ PHƯƠNG-TIỆN THỜI-CƠ, NẾU TRÁI VỚI PHƯƠNG-TIỆN ÐÓ, TẤT BỊ THẤT-LỢI”.Tại sao thế ?

Như cọ gỗ ướt để tìm lửa thì không thể được, vì trái thời. Và như bẻ cây khô để tìm nước, cũng chẳng thể có, vì không trí-huệ. Ðức Như-lai đã phân-định năm thời kiên-cố sau khi Ngài nhập-diệt, mỗi thời là năm trăm năm.  Trong các thời Chánh-pháp và Thiền-định Kiên-cố, hành-giả nên chọn Thánh-đạo, tu Ðịnh-huệ làm phần chánh, cầu Tịnh-độ làm phụ”.

Từ cuối thời Ða-văn kiên-cố bước sang thời Tháp-tự và Ðấu-tranh kiên-cố về sau, nên lấy Tịnh-độ làm phần chánh, tu Thánh-đạo làm phụ".

 

           Ngoài những chứng-liệu trên, còn lời huyền-ký của bậc chơn-tu đắc đạo là Thiên-Như Thiền-sư, cùng những điểm nhận-định và biện-chứng của các bậc danh-đức xưa nay. Trong phạm-vi khái-ước nầy không thể nêu ra hết được. Bên Trung-Hoa từ cuối đời nhà Tống về sau, các bậc Tôn-đức quan-sát rõ thời-cơ, đều chuyển lần từ Thiền trở sang xiển-dương Tịnh-độ.  Tuy nhiên vì Thiền tông lưu-hành hưng-thịnh từ lâu thành phong-thái, nên thường có sự tranh-đua giữa TỊNH VÀ THIỀN.

Song, đó chỉ là Kiến-chấp của một số người chưa Quán-triệt Phật-lý cùng Thời-cơ, còn các bậc cao Tăng đã Liễu-đạt, thì chỉ tùy-duyên mà duy hộ chánh-pháp, tuyệt không có tâm-niệm phân-biệt đây kia. Cứ trung-thật mà luận, chúng hữu-tình có nhiều tâm-bệnh cùng sở-nguyện, riêng một môn Tịnh-độ vẫn không thể phổ-cập và thích-ứng để hoằng dương chánh-pháp, lợi-ích quần-sanh,  nên rất cần sự có mặt của các pháp-môn.

Theo thiển-ý, trong thời Mạt-pháp, hành-giả các tông-khác, tuy hoằng-truyền bản-môn, nhưng cũng nên nghiên-cứu Tịnh tông và quy-hướng về lối vãng-sanh để bảo-đảm cho sự giải-thoát, như chư Tôn-đức bên Tông Tào-động, ngoài hoằng Thiền trong kiêm tu Tịnh khi xưa. Và người tu Tịnh-độ cũng cần học-hỏi các TÔNG khác, để thêm tiến-ích cho đường hành-đạo của mình, bởi mỗi TÔNG như những đóa-hoa, đều sáng tươi riêng phần đặc-sắc. Lời dẫn-luận trên, chỉ y theo quan điểm từ-mẫn lợi sanh của PHẬT và chư Cổ-đức, nêu ra một đường lối tu-tập thích-ứng với thời-tiết và cơ duyên mà thôi.

 

           Ở Trung-Hoa vào thời cận đại, có phong-trào chấn-hưng Phật-giáo do một số danh-tăng và Phật-tử trung-kiên cổ-xúy. Quán-sát hành-vi lúc sanh-thời và khi lâm-chung của ít người trong nhóm đó, những biểu-tượng mà thường nhơn không thể có được, nhiều nhà học Phật quả-quyết đó là các bậc Bồ-tát tái-lai để duy hộ  chánh-pháp. Trong hạng các người phi-thường ấy :

 

Dế-Nhàn pháp-sư  giảng-kinh khắp nơi, chấn-hưng về Thiên-Thai tông

 

Hư-Vân Thượng-nhơn tu chỉnh các danh-lam, thánh-tích của Phật-giáo, chấn-hưng về Thiền tông.

 

Ấn-Quang đại-sư  dùng thơ-tín, kinh, tượng độ vô-số người, chấn-hưng về Tịnh-độ tông.

 

Hoằng-Nhứt đại-sư  nghiêm giữ giới-hạnh, soạn thành bộ "Nam-Sơn Luật Uyển Tông-thư, chấn-hưng về luật tông.

 

Thái-Hư đại-sư  vận-động cuộc canh-tân Phật-giáo, chấn-hưng về Duy-thức tông.

 

Kim-Cang Thượng-sư  Hô-Ðồ Khắc-Ðồ Tây-Khang đến truyền-dương về Mật-tông.

 

Đến như cư sĩ  Dương-Nhân-Sơn trọn đời thành-lập Bang, Hội sưu-tầm và ảnh ấn các tượng Phật, Bồ-Tát và "Tam-tạng kinh-điển", để cho chánh-pháp khỏi bị sớm hủy-diệt  về sau.

          

Riêng ngài ẤN-QUANG đã đem sự vãng-sanh lúc lâm-chung, chứng-minh cho lời nói và hành-động buổi bình-thời, thì không cần bàn luận.

Còn Dế-Nhàn pháp-sư  tuy hoằng dương kinh Pháp-Hoa, truyền dạy môn Tam-Quán, nhưng lúc lâm-chung vẫn theo gót đấng khai-tổ bản-tông là Thiên-Thai Trí-Giả, niệm Phật sanh về Cực-lạc.

Hư-Vân Thượng-nhơn tuy thị-hiện ngộ-đạo, làm mô-phạm hướng-dẫn hành-giả  tu Thiền, song khi gặp hoàn-cảnh, cơ-duyên cũng khuyên người niệm-Phật.

Hoằng-Nhất đại-sư  lưu lại bút-tích "Bi-Hân Giao-Tập", lúc lâm-chung  khi thấy Tây-phương Tam-Thánh đến rước.

Thái-Hư đại-sư  hoằng dương Duy-Thức, song hằng khen-ngợi mười phương Tịnh-độ, nhưng vì không muốn trái với ứng-tích của đấng khai-tổ là Di-lặc Bồ-tát, nên hồi-hướng cầu sanh Ðâu-Suất Tịnh-Độ.

Thượng-sư Hô-Ðồ Khắc-Ðồ tuy-truyền pháp "Thánh cứu-độ Phật mẫu", gồm 21 Độ Mẫu, hóa-thân của đức Quán-Âm để cứu nạn tai thời mạt-kiếp, song cũng khuyên hàng đệ-tử đem công-đức trì-niệm hồi-hướng về Cực-lạc.

Dương-Nhân Sơn cư-sĩ lúc mãn phần, ngồi chắp tay nói với các hàng đạo-hữu:  "Bản-nguyện của tôi cùng bản nguyện đức A-Di-ÐÀ dung-hợp nhau" , rồi niệm Phật mà hóa.

 

Có phải chăng các bậc danh-đức trên đây, tuy mỗi người làm một Phật-sự, song đã dùng bản thân, hoặc lời nói mà ngầm khuyên các hành giả chú trọng về sự giải-thoát, vãng sanh.

 

 

5.- LUẬN VỀ NGƯỜI VÀ CẢNH THỜI NAY

 

Nói-chung trên phương-diện hoằng-dương đạo-pháp, mỗi Tông đều phát-huy  những đặc-điểm của mình, để người học Phật tùy sở-thích mà thu-nhập. Nhưng bình-tâm thử-nghiệm xét, lúc nầy là thời buổi nào ?

 

           Thời nầy LUẬN VỀ NGƯỜI, thì chúng sanh phần nhiều đều nặng nghiệp. Bên Trung-Hoa, khoảng cuối đời nhà Thanh bước sang thời Dân-quốc, Cư-sĩ Cao-Hạt-Niên khi hỏi đạo nơi các danh-lam, gặp một vị cao-tăng ẩn-tu bảo:  

“Thời nay, trong 100 kẻ ác, mới có một người thiện. Trong 100 kẻ thiện, mới có một người hướng về đạo. Trong 100 kẻ hướng về đạo, mới có một người giữ vững tâm-nguyện, không thối-chuyển trên bước đường tu-hành.”

 

Thuở-xưa , trong lúc phú-pháp cho Huệ-Khả Ðại-sư, Tổ Ðạt-Ma có dạy:

“Khoảng 200 năm về sau, người học LÝ thì nhiều, song ngộ LÝ rất ít. Người nói Lý thì nhiều, song hành LÝ rất ít. Người hành LÝ hoặc nhiều, song chứng LÝ rất ít. Nên ý-thức, chỉ riêng bước đầu là phần học Phật-lý, nhiều kẻ nếu chẳng vướng về chấp CÓ, giữ chặt lấy SỰ-TƯỚNG, thì cũng lạc vào chấp KHÔNG, bài-bác nhân-quả! Mấy ai là bậc hiểu sâu Phật thừa, liễu ngộ DIỆU-HỮU TỨC CHƠN KHÔNG, CHƠN-KHÔNG TỨC DIỆU-HỮU ? Cư-sĩ tuy mộ-đạo, song dè-dặt đừng sa vào kiến-chấp đó”. 

 

Cao Hạt-Niên cư-sĩ có hỏi đến chỗ tiến chứng của nhiều bậc Trưởng-lão. Tất-cả đều khiêm-nhường Svà thành-thật trình-bày, đại-khái như: Nghiệp-chướng nặng, Còn nhiều tán-loạn, hôn-trầm, Giới-hạnh và oai-nghi kém-khuyết, Bước tu chưa đạt đến thật-địa…Khi cư-sĩ đề-cập đến những kẻ xưng mình đã chứng-ngộ, thì các vị ấy đều cảnh-giác:

“Theo kinh Lăng-Nghiêm, đức PHẬT có huyền-ký : Gần thì thập-thế 1000 năm (mỗi thế có 100 năm), xa thì bách-sanh 3000 năm  (mỗi sanh có 30 năm), có rất nhiều ma ngoại ám-nhập người tu, hoặc ẩn-bóng trong chánh-pháp. Thời buổi nầy, nếu có ai tự-xưng đã chứng-ngộ, hoặc bảo rằng mình là PHẬT, TỔ hiện-thân, đó đích-thị là hàng ma ngoại”. 

 

Những điều trình-thuật trên đây, cho chúng ta thấy CON NGƯỜI THỜI NAY HOẶC-NGHIỆP và MA-CHƯỚNG QUÁ NHIỀU !

 

LUẬN VỀ CẢNH, thì những tai-nạn : Ðộng đất, núi lở, bảo-lụt, trộm-cướp, chiến-tranh, lửa cháy, hạn-hán, mưa nắng trái thời, sâu trùng phá-hoại,  dịch-chướng lan-tràn, đã diễn ra ở nhiều nơi. Nhìn đến tương-lai, trận thế-chiến thứ ba chắc đâu tránh khỏi ! Các phái Tiên đều bảo buổi nầy là thời mạt-kiếp, có sự thanh-lọc rộng-lớn. Ðạo Chúa nói sẽ có tận-thế trước năm hai ngàn.

Còn riêng bên đạo Phật, khi HƯ-VÂN thiền-sư xuất-thần lên cung trời Ðâu-xuất, được nghe DI-LẶC Bồ-tát nói pháp-môn Duy-Tâm thức định. Nơi đoạn kết-thúc, Bồ-tát đọc bài kệ dài, trong ấy có mấy câu:

“Kiếp-nghiệp đương đầu.

Cảnh-tích phổ-giác.

Khổ-hải từ-hàng.

Vô-linh thối-khước”.

 

Ðại-ý của đức DI LẶC bảo, ở trần-giới tam tai tiểu-kiếp đã bắt đầu, gồm các nạn:  Ðói-khát, tật-dịch và chiến-tranh.  Bồ-tát khuyên thiền-sư và những hành-giả đạo Phật, nên làm chiếc thuyền từ trong biển khổ, nhắc-nhở chúng-sanh thức-tỉnh trước các tai-nạn ấy, mà gắng lo tu-hành, đừng để thối-chuyển ...Nói khái-quát, đi sâu vào thời mạt-pháp, chúng-sanh nghiệp nặng, thế-giới nạn-tai, cảnh nước lửa lầm-than đã hiện ra trước mắt. Thời buổi nầy, thật ra còn không nên có sự phân-biệt giữa các tôn-giáo, huống chi trong các môn phái đạo Phật! Hiện nay các đạo đều thi nhau đóng con thuyền tế-độ giữa cảnh sóng-gió, trầm-luân. Thần-đạo thì độ thuộc-phái trở về cảnh-giới Thần. Tiên-đạo thì độ các người có căn Tiên.

 

Còn Phật-đạo, tất phải khuyên kẻ hữu-duyên về nơi Phật-cảnh.

 

 

6.- VÀI ĐIỀU KẾT-YẾU

          

Qua trên, Tệ-nhơn đã trình-bày môn Tịnh-độ qua bốn yếu-điểm, rồi luận về NGƯỜI và CẢNH thời nay, khái-lược các điều quan-yếu, để phụng-khuyến đồng  bạn trong biển mê tối trầm-luân, cùng hướng bước về nẻo sáng-suốt an-lành của pháp-môn Tịnh-độ. Đó là phần lý-thuyết,  còn phần thực-hành sẽ có NGHI-THỨC ở chương sau.

 

Trong khi trình-luận, có mấy điểm đề-cập đến giới-hạn giữa TỊNH và THIỀN, cũng bởi-vì lý-do bất đắc-dĩ và cần-thiết:

 

“Vì một ít vị học Thiền, bài-bác việc tụng-kinh, niệm Phật qua nhiều điểm, khiến đa-số Phật-tử bối-rối  hoang-mang hỏi đến, nên bất đắc-dĩ phải biện-minh.

Vì nương theo gót từ-bi của Phật và chư Tôn-đức, đã nói về pháp hợp thời-cơ để làm lợi-ích cho người học-đạo, nên cần-thiết phải giải-thích. Bởi nếu nói pháp chẳng hợp cơ, tất chúng-sanh chìm trong bể-khổ.”

 

“Thuyết pháp bất đậu cơ,

Chúng sanh một khổ hải. ”

 

Thật ra, tệ-nhơn rất thích Thiền-tông và có-thể bảo là có căn-cơ về môn ấy. Nói mến-thích, vì Thiền-tông có những đặc-điểm của nó. Chẳng-hạn như, khi học-giả đến hỏi một Thiền-sư: Thế nào là đạo ?

 

Sư đáp:

 

“Một áng khói mây phong cửa động,

Muôn chim về tổ chợt mê đường!”

 

Chỉ dùng hai câu vừa văn-nhã, vừa giản-dị bao-quát để phá những khái-niệm phân biệt về đạo, đưa vào chân-tâm, Thiền-tông đã tỏa ra một hương vị thanh-thoát. Lại như câu chuyện, khi ngài Pháp-Nhãn hỏi Như-Tắc Thiền-sư: Sao chưa từng thấy giám-viện phỏng-đạo ?

 

Như-Tắc đáp, Tôi đã có chỗ sở-nhập do sư Thanh-Lâm khai-thị, vì khi tôi hỏi: Thế nào là Phật ?

 

Thanh-Lâm đáp: “Bính-Ðinh đồng-tử đi tìm lửa”. Ngài Pháp-Nhãn bảo: “Khá hay! Nhưng e ông chưa hiểu, vậy thử  tỏ bày chỗ kiến-giải xem sao ?

 

Như-Tắc thưa: “Bính, Ðinh (là hai can trong thập can) thuộc hành HỎA, tức là lửa, đem lửa tìm lửa, cũng như chính mình là PHẬT mà lại đi tìm PHẬT”. Pháp-Nhãn nói:  “Quả-nhiên Giám-viện hiểu sai rồi !” Như-Tắc không tỏ ra sắc giận, quay mình bỏ đi. Ngài Pháp-Nhãn bảo thị-giả: “Người nầy nếu trở lại thì cứu được, bằng không chắc chẳng thể cứu-độ”. Như TẮC Thiền-sư đi nửa đường, bỗng suy nghĩ: “ Ông ta là bậc Thiện tri-thức của đại chúng gồm 500 vị, chẳng lẽ lại trêu mình ?”. Liền trở lại, sám-hối cầu khai-thị.

 

PHÁP-NHÃN bảo đề khởi lại câu hỏi trước. Sư liền đảnh-lễ thưa : “Bạch Tôn-đức, thế nào là PHẬT ?” PHÁP-NHÃN đáp: “BÍNH-ÐINH đồng-tử đi tìm lửa!”. Nghe xong NHƯ-TẮC chợt tỏ ngộ.

 

Lối giải đáp của ngài PHÁP-NHÃN là đúng ngay ý-thức tìm cầu về Phật đã có sẵn của NHƯ-TẮC thiền-sư, hốt-nhiên đưa sư  đi thẳng vào cảnh-giới siêu-thức. Cảnh-giới tỏ-ngộ ấy sâu hay cạn và như thế nào, đều không phải lời nói, tâm-tư mà có thể đến được, chỉ do đương-nhơn tự biết lấy, như chính mình thể-nhận khi uống nước hoặc nóng hoặc lạnh mà thôi. Và đây cũng lại là một hương-sắc thơm đẹp của bên Thiền.

 

           Còn nói có căn về Thiền, vì tệ-nhơn lúc trẻ tuổi đang trên đường học đạo, một hôm đứng tựa gốc cây, bỗng-nhiên muôn niệm đều tiêu-tan, tâm cảnh thoạt vào cõi rất mực an-tĩnh, nhẹ-nhành, sáng-suốt. Cảnh thoát trần không thể diễn-tả ấy, chỉ kéo dài không đầy năm phút. Khi hoàn lại trạng thái cũ, Tệ nhơn suy-nghĩ  biết đó là túc-tập về tu Thiền trong một tiền-kiếp của mình. Từ ấy hằng ưa-thích thiền tĩnh-tọa. Trên bước tu, tuổi càng lớn, sự lịch-duyệt càng sâu, tự xét mình thiện căn tuy có song hoặc-nghiệp còn nhiều, lối luận-thuyết cao-siêu, sự hiểu biết chút ít về đạo, không thể đưa đến chỗ giải-thoát được. Do đó lần-lần hướng về Tịnh-độ, sám-hối, niệm Phật, cầu nguyện lực của Như-Lai hộ trì, tiếp dẫn.

 

Ðến nay, Thành-thật mà nói: “Gương tánh hãy mờ, gót tu chưa ổn, căn-thân chẳng tịnh, hạnh-kiểm còn sơ”. Soi gương Bá-Ngọc, hơn 50 vẫn còn thấy lỗi-lầm. Hướng gót Triệu-Châu, tuổi 80 còn mong học hỏi. Với danh-phận xuất-gia, tự thấy còn chưa xứng-đáng, chẳng qua trên cương-trường hoằng-hóa, phải cố-gắng đóng cho trọn vai-tuồng của mình đó thôi. Nhìn về tương-lai, Xét về bổn-phận, Xin mượn hai câu sau đây để tự diễn-tả:

 

Quý Tử áo thô nhiều vẻ thẹn,

Lưu-lang suối cũ luống bàng-hoàng!

 

 

CHƯƠNG II 

NGHI THỨC MẬT TÔNG

 

          Từ đây trở về sau, những đoạn nào có kép vòng đơn ( ), là các điều căn-dặn hoặc dẫn-giải, in bằng chữ nghiêng.  Chữ lớn thẳng là phần xướng-tụng hành-trì. Trải nhiều năm kinh-nghiệm, tệ-nhơn xét thấy các hành-giả thời nay có những ma-chướng, mà đạo-lực kém-yếu của phần đông người thời mạt-pháp khó nổi vượt qua.  Ðó là những ma-chướng nội-tâm,  ma-chướng ngoại-cảnh và ma-chướng thuộc giới vô-hình. Vì thế, sau khi nghiên-cứu trong Ðại-tạng, tệ-nhơn đã dựa vào kinh-nghiệm của chính mình và nhiều hành giả khác thuật lại, dung-hợp môn tu Tịnh-độ thuộc Mật-giáo cùng Hiển-giáo soạn ra nghi-thức nầy.

           Trong đây chú-trọng về sự khái-quát đơn-giản, lời gọn mà ý-tứ đầy-đủ.  Pháp-nghi nói sau chia ra làm ba phần:

     

1. Lễ bái sám hối

2. Trì chú niệm Phật

3. Phát nguyện hồi hướng

 

Xin lưu-ý, Pháp-nghi chỉ là hình-thức, là khuôn-mẫu, để cho “hành-giả” nương vào nơi sự-tướng mà tiến-tu, mà hướng về chơn-cảnh. Còn tiến-trình sâu hay cạn, thấp hay cao, công-đức ít hoặc  nhiều , còn tùy tâm chí-thành,  sức trì-niệm của các hành-giả.     

 

 

1. - PHẦN LỄ-BÁI SÁM-HỐI

 

( Trước tiên rửa tay, rửa mặt, lễ phục nghiêm-chỉnh. Khi đến nơi lễ tụng, Hành-giả dùng ẤN KIẾT-TƯỜNG, tay trái ngón cái  nắm co đầu ngón vô danh, vẽ và tưởng chữ RAIN (RĂN)

 



sắc trắng trong lòng tay mặt 3 lần.  Rồi tay mặt cũng kiết ấn  vẽ  vào lòng tay trái y như vậy. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui đứng chấp tay trước bàn Phật, đọc bài kệ tán)

 

  

Sắc thân PHẬT mầu đẹp,

Trong đời không ai bằng.

Khó sánh-ví, nghĩ bàn!

Nên nay con đảnh-lễ. 

 

Sắc thân PHẬT vô-tận,

Trí-huệ cũng như thế.

Tất-cả pháp thường-trụ,

Nên nay con quy-y. 

 

Bi, trí, nguyện-lực lớn,

Ðộ khắp cả hàm-linh.

Khiến bỏ thân phiền-não,

Sanh về cõi thanh-lương. 

 

Nay con tịnh ba nghiệp,

Quy-y và lễ tán.

Nguyện cùng các hữu-tình,

Ðồng sanh về Cực-lạc.  

 

(Hành giả có thể đọc bài kệ tán khác mà mình thích)

 

PHỔ-LỄ CHƠN-NGÔN

 

UM! VA JI RA VẮT (7 lần)

( AUM !  VÀJRA VÃT)

 

            ( Trong khi tụng chú, kiết ẤN KIM-CANG HIỆP-CHƯỞNG để trên đầu, chấp hai tay lại  ngón so le, hữu áp tả. Theo Mật-giáo, nên tưởng mình hiện thân khắp pháp-hội 10  phương, lễ kính chư PHẬT. Xong xả ấn ngay nơi đảnh.)

 

1.  NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Hoằng-dương môn TỊNH-ÐỘ, THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT, Trăm ngàn ức hóa-thân, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)

 

2.  NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Thường-tịch quang Tịnh-Ðộ, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Pháp-thân mầu thanh-tịnh, Khắp pháp-giới chư Phật. (1 lạy)

 

3.  NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Thật-báo trang-nghiêm độ, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Thân tướng hải vi-trần, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)

 

4.  NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Phương-tiện Thánh cư độ, A-Di-ÐÀ Như-lai, Thân trang-nghiêm giải-thoát, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)

 

5.  NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc Phương Tây, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Thân căn-giới đại-thừa, Khắp pháp-giới chư PHẬT.  (1 lạy)

 

6.  NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc Phương Tây, A-DI-ÐÀ Như-Lai, Thân hóa đến mười phương, Khắp pháp-giới chư PHẬT. (1 lạy)

 

7.  NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, Giáo, hạnh, lý ba kinh, Y chánh đều tuyên-dương, Khắp pháp-giới tôn PHÁP. (1 lạy)

 

8.  NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, QUÁN THẾ-ÂM Bồ-tát, Thân tử-kim muôn-ức, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)

 

9.  NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, ÐẠI THẾ-CHÍ Bồ-tát, Thân, trí sáng vô-biên, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)

 

10.  NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, VĂN-THÙ Ðại Bồ-tát, Thân thị-hiện Trí-mầu, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)

 

11.  NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, PHỔ-HIỀN Ðại Bồ-tát, Thân hạnh, nguyện sát-trần, Khắp pháp-giới Bồ-tát. (1 lạy)

 

12.  NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ: Cõi Cực-Lạc phương Tây, Thanh-Tịnh Ðại-hải chúng, Thân phước-trí trang-nghiêm, Khắp pháp-giới thánh-chúng. (1 lạy)

 

(Kế tiếp, quỳ trước bàn Phật, chấp tay, chí-thành, đọc bài kệ Sám-hối)

 

 

Quy-mạng mười phương PHẬT,

Tôn PHÁP, hiền-thánh TĂNG,

Tam-thánh cõi Cực-Lạc,

Xin thương-xót chứng-minh,

Vô-thỉ kiếp đến nay,

Con mê lạc luân-hồi.

Do bởi tham, sân, si,

Từ nơi thân, khẩu, ý.

Tạo tứ-trọng, ngũ-nghịch,

Thập ác, vô-biên tội.

Nay đem tâm chí-thành,

Tỏ bày cầu sám-hối.

Nguyện nhớ sức gia-trì,

Thân-tâm đều thanh tịnh.

Xin phát đại Bồ-đề,

Ðộ mình, người giải-thoát.

 

NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT.  (3 lần)

 

 

(Đứng lên chấp tay xướng)

 

Ðệ-tử Sám-hối, phát-nguyện rồi, chí-tâm đảnh-lễ Tam-bảo. (1 lạy)    

 

 

2.- PHẦN TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT

 


 

( Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật. Tịnh tâm trong giây phút, rồi Tưởng chữ  RĂN sắc Trắng trên đầu, phóng ánh sáng Đỏ.) 

 



( Kế dùng ấn Kiết tường Viết và Tưởng chữ RĂN cùng chữ HÙM cũng đều sắc Trắng, gia trì Hai lòng bàn tay và Chuỗi, mỗi nơi ba lần.

 

 

Lại tiếp dùng ấn Kiết tường, gia trì SỔ CHÂU chân ngôn sau đây nơi tràng Chuỗi, xong búng Ba cái, xả ấn trên Đảnh.)

                

GIA TRÌ SỔ CHÂU CHÂN NGÔN

 

UM! VAI RÔ CA NA MA RA XÓA HA  (7 lần)

(AUM! VAIROCANA MARA SVÀHÀ)

 

( Xả ấn xong, vẫn ngồi chắp tay tụng bài Hương tán)

 

                Nguyện mây hương mầu này,

                 Hiện khắp mười phương cõi.

                 Tất cả các Phật độ,

                 Vô lượng hương trang nghiêm.

                 Đầy đủ Bồ Tát đạo,

                 Thành tựu Như Lai hương.

 

Nam mô Hương Vân cái Bồ Tát ma ha tát (3 lần)

 

(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)

         

           Quang, thọ khó suy lường,

          Sáng lặng khắp mười phương.

          Thế Tôn Vô Lượng Quang,

          Cha lành cõi Liên ban.

          Thần lực chẳng tư nghì,

          Sống lâu A tăng kỳ.

          A Di Đà Như Lai,

          Tiếp dẫn lên liên đài.

          Cực Lạc cõi thuần tịnh,

          Công đức lạ trang nghiêm.

          Nơi tất cả quần sanh,

          Vượt lên ngôi Bất thối.

          Mười phương hằng sa Phật.

          Đều ngợi khen Vô Lượng.

          Cho nên hôm nay con,

          Nguyện sanh về An Dưỡng.

 

Nam mô Liên trì hải hội Phật Bồ Tát. (3 lần)

 

(Tiếp tụng)

 

PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN

 

UM ! SOA PHẠ VA SUÝT ĐA, SAT VA ĐẠT MA,

SOA PHẠ VA SUÝT ĐA HÀM.

UM ! RĂN RĂN RĂN.

(7 lần)

 

(  AUM! SVABHÀVA SUDDHA, SARVA DHARMA,

SVABHÀVA SUDDHA HÀM.

AUM! RAIN RAIN RAIN.

 

Khi tụng chú này, kiết Chuẩn Đề biệt ấn. Cả hai tay, ngón cái nắm co ba ngón: trỏ, vô danh và út. Kế hiệp hai lại, hai ngón giữa dụm đầu nhau dựng đứng. Tụng xong xả ấn nơi đảnh.

 

Đây là phối hợp chú Tịnh tam nghiệp và Tịnh pháp giới. Chân ngôn này có công năng khiến cho bên trong: thân, khẩu, ý, y phục, bên ngoài từ chỗ ở của mình đến hoàn cảnh rộng xa đều thanh tịnh. Do chú này, tội chướng đều được tiêu trừ, có thể thành tựu các việc thù thắng.) 

 

HỘ THÂN CHƠN NGÔN

 

UM ! VA JI RA, A NGHĨ NI, BÁ RA NĂM BÌ ĐÁ DA, XÓA HA.

UM ! XỈ RĂN, XỈ RĂN, XỈ RĂN.

(7 lần)

 

( AUM! VAJRA ANGI PRA NÀMBIDHÁYA SVÀHÀ.

AUM! SRAIN SRAIN SRAIN.

 

Khi tụng chú này, kiết ấn Bị giáp hộ thân, Hành giả xoa hai tay vào trong, hữu áp tả, hai ngón giữa dựng đầu dính vào nhau, hai ngón cái áp vào ngón vô danh. Hai ngón trỏ cong lại như lưỡi câu, những không đụng vào lưng hai ngón giữa.

Đây là phối hợp chú hộ thân trong nghi Thập bát đạo và Mạn Thù Nhất Tự chân ngôn, khi kiết tụng ấn chú này, thân của đương nhơn liền được mặc giáp trụ. Tất cả loài ma làm chướng ngại, bỗng thấy hành giả oai đức tự tại, ánh sáng bao phủ chói ngời, liền tan rã bỏ chạy. Sức chân ngôn nầy có thể bảo về được bản thân và tất cả mọi người quanh. Các ách nạn như: nước, lửa, cọp, sói, sư tử, dao gậy, gông xiềng thảy điều tiêu diệt. Khi tụng chú này xong 7 biến liền xả ấn nơi đảnh.

Kế hai tay đều kiết ấn Kim cang quyền, ngón cái bấm vào gốc ngón vô danh, nắm chặt lại. Rồi đem ấn in vào các nơi: trán, yết hầu, hai vai, ngực, rún, hai bắp đùi, sau thận môn, xương gu cổ và đảnh rồi xả ấn. Trong khi ấy miệng tụng chữ Hùm liên tiếp, cho đến khi xả ấn rồi mới thôi. Đây là pháp thức trấn tà ma không cho xâm nhập vào thân.)

 

 

VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN

 

NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA. 

NAM MÔ A RỊ DA.  A MI TÁ BÀ DA.  TÁT THA GA TÁ DA.  A RA HA TI.  SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA.  TÁT DA THA. 

UM !  A MI RỊ TI.  A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ GA BÊ.  A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ.  A MI RỊ TÁ SI TÊ.  A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.

A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ.  A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI.  A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI.  SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI.  SẠT VA MA CA LI.  SA KHẤT SÁ DU CA LI.  SÓA HA.

 

UM! BÚT RUM!  HÙM!

 

(54 hoặc 108 lần)

 

 

( NAMO RATNATRÀYAYA.

NAMO ÀRYA  AMITABÀYA.  TATTHÀGATAYA.   ARAHATI.   SAMYAKSAMBUDDHAYA.   TADYATHÀ ! 

AUM !   AMIRTI, AMIRTA NABÀVE.   AMIRTA SAMBÀVE, AMIRTA GABE, AMIRTA SUDDHE, AMIRTA SITE, AMIRTÁ VICALANTE,

AMIRTA VICALANTA GÀMINI.   AMIRTA GAGANA KITICALI, AMIRTA LODO VISABHALI.   SARVARITHA SADDHÀNI, SARVA MACALI.   SAKSA YÙKALI.   SVÀHÀ.  

 

AUM ! BHRUM, HÙM.

 

Khi tụng chân ngôn này, kiết ấn Vô Lượng liên hoa. Hai xoa bên ngoài hữu áp tả. Dựng hai ngón giữa đầu dụm cong lại như cánh sen. Có thể kiết ấn này tụng chân ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số. Đà ra ni này, tụng một biến, diệt các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác trong tự thân, tất cả tội chướng đều tiêu diệt.

Nếu hàng xuất gia tăng ni, hoặc tại gia thiện tín, phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Khi kiết ấn tụng chơn ngôn nầy, liền cảnh giác đức Vô Lượng Thọ Như Lai phóng quang trụ nơi đảnh của hành-giả, và được sự nhiếp thọ. Tụng đến một vạn biến, Tâm bồ đề hiển hiện trong thân không quên mất.

Người trì niệm lần lần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng mát mẻ trong sạch như trăng thu, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả thấy Phật A Di Đà cùng với  vô lượng trăm ức chúng Bồ Tát vây quanh đến an ủi tiếp dẫn. Đương nhơn liền sanh về phẩm Thượng thượng ở Cực Lạc.

Câu: “UM! BÚT RUM!  HÙM!” là chân ngôn “Nhứt Tự chuyển luân”, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo. Các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú nầy.

Tệ nhơn vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.

Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề.  Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.

Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.

Tụng chân ngôn xong, tiếp chắp tay đọc bài kệ khen tướng hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.)

 

Thân Phật Di Đà vàng rực rỡ,         

Tuyệt vời tươi đẹp tướng trang nghiêm.         

Năm Tu Di uyển chuyển ngọc hào,         

Bốn đại hải biếc xanh liên mục.         

Vô biên hóa Phật cùng Bồ Tát,         

Hiện đầy trong ánh diệu quang-minh.         

Nguyện lành bốn tám độ hàm-linh,         

Chín phẩm sen vàng sanh Cực Lạc.         

 

Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, Đại từ đại bi,

Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.

        

  (Kế tiếp niệm)

 

Nam Mô A Di Đà Phật

 

( Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.

          Về cách trì niệm, tệ nhơn lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:

 

1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.

 

2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.

 

3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt.  Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.

 

4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.

 

          Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, tệ nhơn đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)

 

 

3.- PHẦN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG

 

(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)

 

Nam mô A Di Đà Phật (10 lần)

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (10 lần)

Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (10 lần)

Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát (10 lần)

 

(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)

 

Nay con trì chú xưng niệm Phật,         

Thệ phát lòng bồ đề rộng lớn.         

Cúi xin xót thương nhiếp thọ con,         

Chứng minh sám hối và sở nguyện.

         

Về trước đến nay con tạo ác,         

Đều do vô thỉ tham, sân, si.         

Từ thân, miệng, ý phát sanh ra,         

Tất cả chí tâm xin sám-hối.

         

Chúng sanh vô biên thề nguyện độ,         

Phiền não vô tận thề nguyền dứt.         

Pháp môn vô lượng thề nguyền học,         

Phật đạo vô thượng thề nguyền thành.         

         

Con nguyện lâm chung dự biết thời,          

Dứt trừ tất cả điều chướng ngại.         

Diện kiến Tây phương Tam Thánh tôn,         

Liền được sanh về cõi Cực Lạc.         

         

Xin đem công đức trì niệm nầy,         

Hồi hướng bốn ân và ba cõi.          

Nguyện khắp pháp giới các chúng sanh,         

Đều sanh Cực Lạc thành Phật đạo.

         

          ( Năm bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)

 

NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:  Nam mô Ta Bà giáo chủ, Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Tây phương Cực Lạc thế giới, Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ Tát, thập phương tam thế biến pháp giới Tam Bảo.

 

(Lễ ba lạy lui ra)

CHUNG



UM! BÚT RUM!  HÙM!



BỘ MẬT TÔNG

 

TỲ KHƯU THÍCH VIÊN ĐỨC DỊCH

 

Comments

Popular posts from this blog