Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.
Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng
TRÚC LIÊN BỔN THẤT
CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ
Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng
MỤC-LỤC
KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT
PHẦN TỰ
PHẨM THỨ NHẤT
DUYÊN KHỞI
Đức PHẬT THÍCH-CA khi xưa thuyết KINH không có phần THÔNG-TỰ và TÊN
KINH.
Có “PHẦN THÔNG-TỰ”, gồm những
“AI” tham dự PHÁP HỘI, Ở ĐÂU...là do ngài A-NAN y theo lời dạy của PHẬT mà
thuật lại đúng những gì ngài đã NGHE THẤY.
( Chính tôi được nghe như thế nầy...Tất cả đại
chúng đều cung kính cúi lạy dưới chân Phật, rồi lui ngồi
một bên.)
Còn “TÊN KINH” thì ngài A-NAN y
theo lời dạy của PHẬT trong PHẦN CHÁNH-TÔNG mà đặt TÊN KINH để cho người đời
sau Y GIÁO PHỤNG HÀNH.
“KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT”
( Do Trưởng-giả Diệu-Nguyệt và
Quốc mẫu Vi-Đề-Hy hoàng thái hậu thưa thỉnh.)
( Lúc bấy giờ, trong hàng Ưu-bà-tắc có một vị trưởng-giả tên là Diệu-Nguyệt, trú ngụ tại thành Vương-Xá, từng quy y Tam-Bảo và thọ trì năm giới cấm, cùng đến dự pháp hội…
Bấy giờ, Quốc
mẫu Vi-Đề-Hy hoàng thái hậu từ trong đại chúng, bước
ra trước Phật đảnh lễ xong, bèn chấp tay thưa:-
"Bạch đức Thế-Tôn, vì duyên cớ gì mà hiện điềm
lành nầy ?"
PHẦN CHÁNH-TÔNG
DUYÊN KHỞI
CÂU “NIỆM PHẬT” LÀ PHÁP GIỚI DUYÊN KHỞI
GỒM CHÂN-NHƯ CÙNG A-LẠI-DA DUYÊN KHỞI, DUNG NHIẾP CẢ “TÌNH” VÀ “TƯỞNG” , HỮU LẪN KHÔNG.
VÀ SAU KHI LÂM CHUNG ĐƯỢC SANH VỀ CÕI PHẬT A-DI-ĐÀ.
Nầy Diệu-Nguyệt cư sĩ ! Trong thời kỳ Chánh pháp diệt tận, chúng sanh nơi cõi Diêm-phù-đề TÌNH nhiều TƯỞNG ít, tâm địa bỏn sẻn, tham lam ghét ganh, các căn lành phước báo kém cỏi. Lúc sanh tiền thọ nhận đủ loại nghiệp dữ, sau khi mạng chung sẽ chịu các quả báo đau khổ trong ba nẻo ác dữ với hạn kỳ lâu dài. Vì thế mà chư Phật khắp mười phương xót thương vô cùng, luôn luôn tìm cách cứu trừ khổ não cho các hạng chúng sanh kia.
Các đức Như-Lai hiện ra nơi đời, mục tiêu chân chánh là không chỉ tuyên dương diệu pháp bí áo sâu xa cho những bậc Thánh giả, hiền nhân - mà mục tiêu khẩn thiết nhất vẫn là nhằm cứu vớt các loại chúng sanh tội khổ, nặng về tình, nhẹ về tưởng.
Chư Phật đã dùng Phật nhãn quán sát khắp mười phương, thấy rõ nghiệp lực chúng sanh lành dữ không đồng đều, thấy thân tướng và cảnh giới của chúng sanh xấu tốt có sai biệt. Nhưng điểm sanh khởi chẳng rời sát-na tâm sanh diệt, chỗ hội quy cũng không rời sát-na tâm sanh diệt.
Muốn hàng phục và chuyển biến cái sát-na tâm sanh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn là pháp NIỆM PHẬT.
Một câu A Di Ðà
Là duyên khởi pháp giới
Chánh nhân của Tịnh nghiệp
Và chủng tử Bồ Ðề.
(Nhứt cú Di Ðà
Pháp giới duyên khởi
Tịnh nghiệp chánh nhân
Bồ Ðề chủng tử.)
Lược giải:
Phật Pháp chia thành hai hệ: Không tông và Hữu tông. Không tông đề ra thuyết Chân Như Duyên Khởi; Hữu tông đề ra thuyết A-lại-da Duyên Khởi. Dung nhập vào Trung Ðạo, tức Nhứt Chân Pháp Giới thì Không và Hữu chẳng khác, Chân Như tức A-lại-da.
Ðây ý nói câu niệm Phật là huyễn hữu, cũng lại là Chân Không, duyên khởi điểm của nó từ nơi pháp giới. Vậy câu niệm phật là Pháp Giới Duyên Khởi, gồm Chân Như cùng A Lại Da duyên khởi, dung nhiếp cả Hữu lẫn Không.
Bởi thế nên Niệm Phật là chánh nhân của Tịnh nghiệp. Tịnh nghiệp đây gồm bốn Tịnh Ðộ mà tiêu điểm cuối cùng là cõi Thường Tịch Quang. Và Niệm Phật cũng là hạt giống Bồ Ðề đưa đến sự Toàn Giác, gồm giác ngộ mình, giác ngộ chúng sanh, hạnh giác ngộ đầy đủ.
CHO NÊN, DÙ CHO QÚY-VỊ TU THEO PHÁP MÔN NÀO CŨNG ĐỀU ĐƯỢC VIÊN-THÔNG VÔ-NGẠI. TẠI SAO VẬY ? VÌ LÀ TỪ PHÁP GIỚI DUYÊN KHỞI, GỒM CHÂN-NHƯ CÙNG A-LẠI-DA DUYÊN KHỞI, DUNG NHIẾP CẢ “TÌNH” VÀ “TƯỞNG” , HỮU LẪN KHÔNG
TÌNH là Tưởng U-ÁM, Tưởng VIỆC LÀM ÁC...
TƯỞNG là Tưởng THÔNG SÁNG, Tưởng VIỆC LÀM THIỆN...
THÌ SẼ LÀM THIỆN NHƯ CÒN CHẤP VIỆC THIỆN,
CHẤP CẢNH GIỚI TU CHỨNG (SỞ TRI CHƯỚNG)
ĐƯƠNG TRI MÊ (TÌNH ) NGỘ (TƯỞNG), ĐỒNG NHỨT CHÂN-TÂM.
PHẢI BIẾT : LÚC MÊ, LÚC NGỘ, CÓ CÙNG 1 CHÂN-TÂM.
ĐẠI TAI DIỆU MÔN, NGUYÊN-NHÂN CHÍ THỬ.
RỘNG LỚN THAY, PHÁP MÔN “VI-DIỆU VIÊN-ĐỐN”, XÉT CÙNG TỘT NGUYÊN-NHÂN NGUỒN-GỐC CỦA LOÀI NGƯỜI LÀ “CHÂN-TÂM”.
Vì sao vậy ? Vì pháp của Như Lai là chân thật, là giải thoát, là an vui, là thuận theo sở cầu, sở nguyện của mọi chúng sanh. Vì pháp của Như-Lai là vắng lặng, không dính mắc, vô cấu nhiễm, thuận theo tình và tưởng của chúng sanh mà vẫn giúp chúng sanh thành tựu địa vị Phật Đà, không bị hư hoại, cho nên chẳng cần phải chán ghét lìa bỏ thế gian, ở trong chỗ ràng buộc mà tâm vẫn tự tại, thọ dụng pháp lạc. Và sau khi lâm chung được sanh về cõi Phật A-Di-Đà".
PHẨM THỨ HAI
MƯỜI TÂM THÙ THẮNG
1. Tín Tâm
2. Thâm Trọng Tâm
3. Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm
4. Xả Ly Tâm
Lìa bỏ luôn cả ý tưởng cầu mong vãng sanh, chí nguyện độ sanh, ý hướng thành Phật mà niệm Phật.
Lời Khuyên Dạy Của Cổ Đức
Vì biết trên đường tu có nhiều chướng ngại, khi xưa đức Đạt Ma Tổ Sư đã nói bốn hạnh để làm phương châm tiến đạo cho hàng đệ tử. Bốn hạnh ấy là: Báo Oan Hạnh, Tùy Duyên Hạnh, Xứng Pháp Hạnh và Vô Sở Cầu Hạnh.
Sao gọi là Báo Oan Hạnh?
Chúng ta từ trước đến nay luân hồi trong sáu nẻo, mỗi đời đều gây nghiệp trái hoặc ân hoặc oán, từ việc nhỏ đến việc lớn, có thể nói là vô lượng vô biên. Cho nên khi ta hành đạo, tuy nhờ công đức tu tập tiêu trừ một phần nào, nhưng các nghiệp chưa tan, tất phải lần lượt đền trả.
Như người thường đau yếu hoặc tàn tật, do kiếp trước đã tạo nghiệp sát sanh.
Người bị nhiều tiếng thị phi khen chê, do kiếp trước ỷ thông minh quyền thế xem rẻ người, hoặc đã tạo nghiệp hủy báng.
Người bị nghèo khổ thiếu hụt, do kiếp trước không có lòng xót thương tu hạnh bố thí.
Người bị gông cùm tra khảo tù đày, do kiếp trước hay trói buộc, đánh đập, giam nhốt chúng sanh.
Kẻ bị cô độc lẻ loi thiếu người phụ trợ, do kiếp trước không hoan hỷ kết duyên với mọi người.
Những nghiệp như thế vô lượng vô biên, ngày nay tu hành khi bị oan trái đến, phải an lòng nhẫn nại chịu đền trả, không nên oán trách buồn phiền. Nơi kiếp luân hồi, chúng sanh đều có ăn uống cùng gia đình đôi bạn, nên trong các nghiệp duy có nghiệp sát và nghiệp ái là nặng nhứt.
Cổ đức đã than:
"Bể nghiệp mênh mang,
Khó đoạn không chi hơn ÁI-DỤC.
Cõi trần man mác,
Dễ phạm duy chỉ có SÁT-SANH!"
Thế nào là Tùy Duyên Hạnh?
Đây là nói sự an phận tùy duyên của người tu cảnh nào sống theo cảnh ấy. Như cảnh giàu sang tùy theo giàu sang, cảnh nghèo hèn tùy theo nghèo hèn, cảnh man rợ tùy theo man rợ, cảnh hoạn nạn tùy theo hoạn nạn, Cho đến cảnh thạnh suy, họa phước, đắc thất, thị phi... cũng đều như thế.
An phận tùy duyên đây, là giàu sang mà không tự đắc kiêu căng, nghèo hèn hoạn nạn mà không buồn rầu đổi chí. Tại sao thế? Vì tất cả cảnh thạnh suy họa phước đều như huyễn, chỉ tùy nghiệp hiện lên một thời gian rồi diệt, có chi đáng tham luyến nản buồn?
Sao gọi là Xứng Pháp Hạnh?
"Pháp" đây là Chân Như pháp, đối với người tu Tịnh Độ là Niệm Phật Tam Muội. Người tu Thiền khi đi đứng nằm ngồi, tâm phải xứng hợp với pháp Chân Như, như nước hòa nước, tợ hư không hợp với hư không. Hành giả tu Tịnh Độ cũng thế, tâm lúc nào cũng trụ nơi câu niệm Phật.
Cổ đức bảo:
"Nếu tạm thời không trụ nơi CHÁNH-ĐỊNH,
Tức đồng như người đã chết."
Bởi không trụ được nơi chánh định, tức là bị trần cảnh đoạt. Bị trần cảnh cướp đoạt lôi cuốn, thì pháp thân huệ mạng không còn. Cho nên người tu Tịnh Độ nếu thường trụ nơi câu niệm Phật, thì tâm địa lần lần lặng yên sáng suốt, cảm thông với Phật, chắc chắn sẽ được vãng sanh.
Thế nào là Vô Sở Cầu Hạnh?
Đạo là chỉ cho tâm hạnh trong sạch không mong cầu điều chi. Bởi tất cả pháp đều như huyễn, sanh rồi diệt, diệt lại sanh, có chi chân thật để mong cầu?
Vả lại pháp thế gian đều tương đối, trong họa có phước, trong phước có họa, nên người trí vẫn bình thản, ở cảnh thạnh suy họa phước đều không động tâm.
Có người hỏi:
"Nếu niệm Phật không cầu vãng sanh, không cầu phước huệ viên mãn để thành Phật, thì làm sao tu tiến?"
Đáp: "Bởi Phật là chơn không, càng cầu lại càng xa càng mất." Vì thế Kinh Pháp Hoa nói: "Giả sử có vô số bậc Thanh Văn, Duyên Giác cho đến hàng Bất Thối Bồ Tát, trong vô lượng kiếp suy nghĩ tìm cầu, cũng không thấy hiểu được thật trí của Phật."
Về sự vãng sanh, thì lối cầu của người tu là cầu mà không cầu, không cầu mà cầu. Sự ứng dụng ấy như mặt gương sáng trong, khi hình đến thì chiếu soi, hình đi, lại lặng yên rỗng suốt.
Giữ sự thấy biết tìm cầu thì lạc vào VỌNG TƯỞNG,
Không thấy biết tìm cầu nào khác gì gỗ đá VÔ-TRI!
Nói rộng ra, hạnh Vô Sở Cầu đây gồm cả ba môn: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện vậy. Nếu người tu giữ theo bốn hạnh của đức Đạt Ma Tổ Sư đã dạy, thì có thể bình thản trước mọi chướng duyên.
HỎI : Niệm Phật cầu
sanh là chấp tướng ngoài tâm tìm pháp, chẳng rõ các pháp đều duy tâm.
ĐÁP : Những người này ý muốn diệu huyền, nhưng kỳ thật lại
thành thiển cận! Bởi họ không rõ Ta Bà đã duy tâm thì Cực Lạc cũng duy tâm, tất
cả đâu ngoài chân tâm mà có? Vậy thì niệm Phật A Di Đà là niệm đức Phật trong
tâm tánh mình, về Cực Lạc tức về nơi cảnh
giới của tự tâm, chớ đâu phải ở ngoài?
Ta Bà và Cực Lạc đều không ngoài tâm, thì ở Ta Bà để chịu sự điên đảo luân hồi, bị ngọn lửa ngũ trược đốt
thiêu, sao bằng về Cực Lạc an vui, hưởng cảnh thanh lương tự tại? Nên biết
đúng tư cánh để tôn sùng duy tâm Tịnh Độ, phải
là bậc đã chứng pháp tánh thân, mới có thể tự tại trong mọi hoàn cảnh. Chừng
đó dù trụ Ta Bà hay Cực Lạc cũng đều là Tịnh Độ, là duy tâm, là giải thoát cả.
Bằng chẳng thế thì dù có nói huyền nói diệu vẫn
không khỏi sự hôn mê khi cách ấm, rồi tùy nghiệp luân hồi chịu khổ mà thôi!
5. An Ổn Tâm
6. Đà Ra Ni Tâm
7. Hộ Giới Tâm
8. Ba La Mật Tâm
9. Bình Đẳng Tâm
10. Phổ Hiền Tâm
PHẨM THỨ BA
NIỆM PHẬT CÔNG ĐỨC
Phổ-Hiền Bồ-Tát nói:
- "Tam-muội nầy gọi là Nhứt Thiết Phật
Độ Thể Tánh còn gọi là Niệm Phật Tam Muội.
Do công đức xưng niệm danh hiệu Phật tạo thành, hoặc là kết
quả tự nhiên của mười tâm thù thắng.
Nầy Phật tử, nay tôi nương thần lực và
lòng đại bi vô hạn lượng của đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni,
mà tuyên thuyết Công Đức Bất Khả Xưng Tán của sự chấp
trì danh hiệu Phật.
Mười thứ tâm thù
thắng ấy, thật ra vừa là nhân vừa là quả. Nhân cùng quả thì không bao giờ
rời nhau.
Người tu môn niệm
Phật thì phải đề khởi mười thứ
tâm thù thắng, mới nhanh chóng thâm nhập Niệm
Phật Tam-muội, hiện bày cảnh giới Cực-Lạc.
Hoặc ngược lại, người
đặt trọn tín tâm nơi Bản-nguyện và cả đời chuyên nhất xưng
niệm danh hiệu Phật, thì dần dần đi vào Niệm
Phật Tam-muội, tự nhiên thành tựu mười thứ tâm thù
thắng nói trên.
THÌ TỰ NHIÊN THÀNH TỰU 10 TÂM THÙ THẮNG
PHẨM THỨ TƯ
XƯNG TÁN DANH HIỆU
Phổ-Hiền Bồ-Tát bèn quán
sát tâm niệm của hết thảy đại chúng hiện tiền, mà dạy rằng
:
- Nầy Phật tử, khi đức Thế-Tôn Thích-Ca Mâu-Ni thị
hiện thành đạo, và bắt đầu hóa độ chúng sanh cang cường,
Ngài đã vì hạng tiểu căn mà khai diễn tiểu pháp kẻo
họ kinh nghi ... Nay đã tới thời kỳ giảng nói Đại
pháp.
Cũng
chỉ là một pháp Niệm Phật, nhưng kẻ hạ liệt chí nhỏ, mong
cầu xuất ly tam giới, thì niệm Phật chỉ là pháp Thanh-văn,
Duyên-giác. Như-Lai vì họ mà dạy HIỆN TẠI LẠC
TRÚ.
Riêng chư vị Bồ-Tát sơ phát tâm, dùng niệm Phật để thâm nhập Như-Lai tạng tâm thì không dính mắc vào hiện tại.
NIỆM PHẬT ĐỂ THÂM NHẬP NHƯ-LAI-TẠNG TÂM
THÌ KHÔNG DÍNH MẮC VÀO "HIỆN TẠI LẠC TRÚ"
Đức
Phật bảo ông Tu-Bồ-Đề: "Bao nhiêu thứ tâm-niệm
của tất cả chúng-sanh trong ngần ấy cõi nước, đức Như-Lai đều biết rõ. Bởi vì
sao? Vì đức Như-Lai nói các thứ tâm đều là chẳng-phải-tâm, đó gọi là tâm. Vì cớ
sao thế? Nầy Tu-Bồ-Đề! Tâm quá-khứ không có chi mà đặng,“TÂM HIỆN-TẠI” không có chi mà đặng, tâm vị-lai không có chi mà
đặng.
KINH KIM CANG
PHẨM THỨ NĂM
QUÁN-THẾ-ÂM BỔ-TÁT
NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị phiền não chi phối ngày đêm không tạm dừng, nên nhận vọng tưởng làm Tâm, bỏ quên Thắng-giải-trí, Vô-thượng-trí. Rồi lại bị tham, sân, si, mạn, nghi lôi cuốn, và thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến chồng chất lấp vùi. Do đó khởi tâm phân biệt, thấy có mừng có giận, yêu ghét, vui buồn, vinh hoa, hủy nhục... nếu tận trừ phiền não thì thân tâm vắng lặng, an nhiên, tự tại, tức đồng với chư Phật không hai không khác.
Muốn tận trừ phiền não, thì không chi hơn là phát huy năng lực Trí giả siêu việt của danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật. Thật vậy nhờ cần mẫn xưng niệm Phật hiệu mà hành giả hiện bày Tự Tâm Quang Minh Hiện Lượng, chuyển phiền não dữ dội ấy trở thành Bồ-đề thật tướng, đưa hành giả thẳng vào cảnh giới Thánh Tri Tự Chứng. Lúc bấy giờ, có khả năng bấm ngón chân xuống mặt đất, sử dụng ấn Địa Xúc để cải biến Ta-bà thành Tịnh-độ trang nghiêm, niệm niệm tương ứng với Thập-địa Bồ-Tát, niệm niệm du hành, giáo hóa xã hội chúng sanh khắp mười phương vi trần bằng hà sa thế giới.
NIỆM PHẬT THẲNG VÀO CẢNH GIỚI THÁNH TRI TỰ CHỨNG
TƯƠNG ỨNG VỚI THẬP-ĐỊA BỒ-TÁT.
HAY
NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT là y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà mau đắc
“BA THỪA” LÊN “PHẬT QỦA”
PHẨM THỨ SÁU
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ CỦA
DANH HIỆU PHẬT
Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát bảo bà Vi-Đề-Hy
rằng:
- Nầy Vi-Đề-Hy,
đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn trọn
đời giáo hóa điều phục chúng sinh, đã ban bố tám vạn bốn
ngàn pháp môn tu tập. Nhưng trong đó, niệm Phật là thù
thắng đệ nhất.
Vi-Đề-Hy, trong quá khứ vô lượng vô
biên na-do-tha kiếp, các đức
Phật Như-Lai đã dùng hằng hà sa phương tiện, thí
dụ, ngôn thuyết, để diễn bày vô số pháp môn tu tập, đưa hết
thảy chúng sanh vào Cảnh Giới Giải Thoát Tối
Thượng Nhứt Thừa. Nhưng duy chỉ có niệm Phật là cứu
cánh đệ nhất.
Vi-Đề-Hy, hiện tại nơi trăm nghìn muôn ức
na-do-tha quốc độ khắp mười phương, các đức
Phật Chánh-đẳng-giác cũng đang dùng hằng hà sa phương
tiện, ngôn thuyết, thí dụ để diễn bày vô số pháp
môn tu tập, đưa hết thảy chúng sanh dung hóa vào Không-tánh,
Niết-bàn Diệu-Tâm Như-Lai Tạng, nhưng duy chỉ có niệm Phật là hữu
hiệu, siêu việt đệ nhất.
Tại sao vậy ?
THẬP PHƯƠNG TAM-THẾ PHẬT
A-DI-ĐÀ ĐỆ NHỨT
CỬU PHẨM ĐỘ CHÚNG-SANH
OAI-ĐỨC VÔ CÙNG CỰC
THẬP PHƯƠNG TAM-THẾ PHẬT
Trong khoảng không gian
vô tận, chẳng phải chỉ có nội một cõi Ta Bà của Đức Giáo chủ Thích Ca Mâu Ni
Phật mà chúng ta hiện ở đây thôi, kỳ thật ngoài Ta Bà ra còn có vô biên thế
giới khác. Phàm hễ có một thế giới thời có một
Đức Phật làm Giáo chủ, thế giới đã có vô biên thời là có vô lượng chư Phật. Chẳng những hiện tại đây vô biên thế giới ở mười phương
(Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên và dưới) có vô
lượng chư Phật, và về thời kỳ quá khứ đã có vô lượng chư Phật và đến thời kỳ vị
lai cũng sẽ có vô lượng chư Phật. Nên trong văn nói : "Mười phương chư Phật ba đời".
A-DI-ĐÀ ĐỆ NHỨT
Trong vô lượng chư Phật
ở mười phương ba đời đó, suy ra thời "Đức Phật A Di Đà là bậc nhứt".
Về Phật quả thời Phật
đồng chứng như nhau, đồng trí viên, đồng hạnh mãn, đồng đức đủ, đồng nguyện
toàn, công đức của chư Phật đã đồng sao lại nói Phật A Di Đà
là bậc nhứt ?. Đây nói bậc nhứt là cứ nơi ứng Hóa
thân của Phật mà so sánh thôi, chớ không phải nói đến Pháp thân và Báo thân, về
Pháp thân và Báo thân của chư Phật quyết hẳn là đồng, vì hai thân đó là thật
thân quả chứng của chư Phật vậy. Còn ứng Hóa thân là những thân vì chúng sanh
cảm cách đến Phật mà ứng hóa ra, chúng sanh cơ cảm có sai khác nên thân ứng hóa
của chư Phật cũng tùy đó mà sai khác, lại sự sai khác đó cũng do vì bổn
nguyện của chư Phật lúc còn tu hạnh Bồ Tát không đồng nhau vậy.
Về sự thù thắng nơi ứng thân của Đức Phật A Di Đà lược kể về phần đại khái thời
có bốn điều :
I. – Quang minh thường chiếu suốt các cõi nước ở mười phương không bị che ngăn,
như trong Kinh A Di Đà nói : “Quang minh của Đức Phật đó vô
lượng, chiếu các cõi nước ở mười phương không bị chướng ngại nên hiệu A Di Đà”. Trong Kinh Vô Lượng Thọ nói : “Giả sử khi Ta đặng thành Phật
mà quang minh có hạn lượng, ít nhứt là chẳng soi suốt trăm nghìn ức na do tha
cõi nước của chư Phật, thời Ta nguyện không chứng quả Chánh giác”, (điều nguyện thứ 12 trong 48 điều nguyện).
Còn quang minh nơi ứng thân của chư Phật, phần nhiều có hạn lượng, hoặc chiếu
một do tuần, 10 do tuần, 100, 1000,… do tuần, hoặc chiếu 1 thế giới, 10, 100,
1000,… thế giới. Như quang minh nơi ứng thân của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ chiếu có 1 tầm !
Vì quang minh vô lượng nên Đức Phật A Di Đà có 12 biệt hiệu như trong Kinh Vô Lượng Thọ : 1. Vô Lượng Quang. 2. Vô Biên Quang. 3. Vô Ngại Quang. 4. Vô Đối Quang.
5. Viêm Vương Quang (có chỗ để Diệm Vương Quang). 6. Thanh Tịnh Quang. 7. Hoan
Hỷ Quang. 8. Trí Huệ Quang. 9. Nan Tư Quang. 10. Bất Đoạn Quang. 11. Vô Xứng
Quang. 12. Siêu Nhựt Nguyệt Quang.
Do đây nên về quang minh thường nơi ứng thân, thời Đức A Di Đà được phần
thù thắng trong hàng chư Phật vậy.
II. - Thọ mạng ứng hiện ra đời của chư Phật phần nhiều đều có hạn lượng : hoặc
100 tuổi, 1.000 tuổi… hoặc 1 kiếp, 10 kiếp, 100 kiếp, 1.000 kiếp… như Đức Phật Thích Ca ở đời chỉ có 80 năm.
Còn về ứng thân của Đức Phật A Di Đà, thọ mạng vô lượng. Trong Kinh A Di Đà
nói: “Đức Phật đó sống lâu vô lượng vô biên vô số kiếp, nên
hiệu là A Di Đà”. Điều nguyện thứ 13 trong Kinh Vô Lượng
Thọ nói : “Giả sử khi Ta đặng thành Phật mà thọ mạng có hạn lượng, ít nhứt
không được trăm nghìn ức na do tha kiếp đó, thời Ta nguyện không chứng quả
Chánh giác”. Nên Đức Phật A Di Đà cùng hiệu là Vô Lượng Thọ Phật.
Đây là thọ mạng của Đức Phật A Di Đà có phần thù thắng trong hàng chư Phật
vậy.
III.- Về phần đồng cư
nơi Cực Lạc, là cõi nước của Đức Phật A Di Đà
cực kỳ trang nghiêm, thuần vui thanh tịnh, tuyệt không có mảy may khổ não, như trong Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà và Quán Vô Lượng Thọ
Kinh đã rộng thuật.
Lại trong bộ Yếu Giải nói: “Cực Lạc đồng cư, tứ độ viên dung: thọ lạc viên dung
– Ở nơi đồng cư độ (cõi phàm) mà viên kiến cả ba bộ trên (3 cõi Thánh : Phương
Tiện độ, Thật Báo độ, Thường Tịch Quang độ – cõi trước là cõi của Nhị thừa
Thánh nhơn, kế là cõi của đại Bồ Tát, sau rốt là cõi của Đức Phật).
Chứ so với các cõi khác, như Ta Bà chẳng hạn, nơi chúng ta đồng sống đây chính
là Đồng Cư độ của cõi Ta Bà vậy thời lại đủ thứ uế nhơ, nào tam khổ, bát khổ, vô lượng đều khổ sở, ngũ
trược… lại hạng phàm phu không thể dự phần nơi cảnh Thánh.
Đây là cõi Đức Phật A Di Đà, về phần Đồng Cư độ có phần đặc biệt trong các
cõi nước ở mười phương vậy.
IV. - Nhân dân trong nước của Đức Phật A Di Đà dầu là phàm, nhưng
cũng đều trụ bậc “Bất thối chuyển”, nghĩa là ở vào địa vị thẳng mải đến thành Phật, không còn
ngưng trệ lui sụt. Nói chi các bậc Thánh ! Trong hàng Thánh của nước Cực Lạc,
cứ về bậc “Nhất sanh bổ xứ Đồ Tát” như ngài Quán Âm, Thế Chí, hay như là Di
Lặc, số nhiều vô hạn, huống là bậc Thập địa, Địa tiền cùng Thanh Văn Duyên Giác
!
Trong Kinh A Di Đà nói : “Nơi nước Cực Lạc, chúng sanh nào sanh về đó đều là
bậc Bất thối chuyển. A La Hán và Bồ Tát đều đồng vô lượng vô biên, không thể
tính đếm mà biết được, chỉ có thể gượng nói vô lượng vô biên vô số thôi”.
Bậc Thánh trong cõi khác hoặc là có số hạn, như cõi Ta Bà có 62 ức hằng hà sa
vị Bồ Tát..
Lại nhân dân nơi Cực Lạc tuổi thọ đồng với Phật, nghĩa là vô lượng, như Kinh A
Di Đà nói : “Thọ mạng của Đức Phật đó và thọ
mạng của nhân dân của Ngài, vô lượng, vô biên, vô số kiếp”.
Đấy là nhân dân, La Hán, Bồ Tát của Đức Phật A Di Đà có phần đặc thắng
trong các cõi nước mười phương vậy.
Vì những phần đặc thắng trên đây, nên trong văn nói : “Mười phương chư Phật ba đời, Di Đà bậc nhứt”.
Đối với chúng sanh, Đức
Phật A Di Đà có nguyện lực độ sanh rất lớn. Nguyện lực đó rõ ràng nhứt là đã
nêu bày trong 48 điều nguyện của Ngài: những nguyện độ khắp Thánh phàm trong
mười phương ! Lại trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ có câu: “Phật-tâm đó là lòng đại
từ bi vậy dùng Vô duyên từ nhiếp độ các chúng sanh”.
Kinh lại nói : “Đức Vô
Lượng Thọ Phật có 84.000 tướng, trong mỗi tướng đều cố 84.000 tùy hình hảo,
trong mỗi hình hảo lại có 84.000 ánh sáng, mỗi ánh sáng chiếu khắp các cõi nước
ở mười phương. Ánh sáng này nhiếp thọ chúng sanh niệm Phật không lìa bỏ”.
Đức Phật A Di Đà có lòng từ, nguyện lớn, phóng quang minh tiếp độ chúng sanh
không lìa bỏ, nên trong văn nói: “Di Đà bậc nhứt chẳng rời quần sanh”.
CỬU PHẨM ĐỘ CHÚNG-SANH
Do nguyện lực của Đức
Phật A Di Đà, nên những người được sanh về cõi Cực Lạc của Ngài đều từ trong
hoa sen báu nơi ao thất bảo mà hóa sanh, nghĩa là mượn hoa sen làm bào thai mà
cho thân hình. Đó gọi là “Liên hoa thanh tịnh hóa sanh”, cũng có câu “Liên hoa
vi phụ mẫu”. Vì người vãng sanh về đó nơi trí có cao thấp, nơi phước có nhiều
ít không đồng nhau, nên hoa sen là chỗ thác sanh cũng có nhiều hạng, đại khái
chia làm 9 phẩm:
1. Thượng phẩm thượng
sanh.
2. Thượng phẩm trung
sanh.
3. Thượng phẩm hạ sanh.
(Ba phẩm này thuộc bậc Đại thừa Bồ Tát)
4. Trung phẩm thượng
sanh.
5. Trung phẩm trung sanh.
(2 phẩm đây thuộc hàng Nhị thừa Thánh nhơn)
6. Trung phẩm hạ sanh.
(1 phẩm đây thuộc hàng có công đức lành ở đời)
7. Hạ phẩm thượng
sanh.
8. Hạ phẩm trung sanh.
9. Hạ phẩm hạ sanh.
(3 phẩm này thuộc về hạng người tạo ác nghiệp)
Cứ nơi chín phẩm trên
đây, thời thấy rằng từ bậc Đại thừa Bồ Tát, Nhị thừa Thánh nhơn, người lành tốt
trong đời cho đến kẻ tạo ác nghiệp, phạm ngũ nghịch thập ác v.v… mà có gia công
niệm Phật, thời đều được vãng sanh về cõi Cực Lạc cả.
OAI-ĐỨC VÔ CÙNG CỰC
Oai lực linh thông của
Phật vô cùng, đức lành của Phật vô cực. Trí quang chiếu phá sự mê tối của chúng
sanh khắp mười phương, đó là “oai lực”. Chúng sanh niệm Phật, thời liền hộ niệm giữ gìn cho được an
ổn không thối không thất, và hiện vô lượng thân đến khắp vô lượng thế giới để
tiếp dẫn chúng sanh về cõi Cực Lạc. Đây là “linh thông”
Tâm của Phật không phút nào quên chúng sanh, như cha mẹ hiền nhớ còn thương
con. Lại không công đức nào mà Phật không hoàn mãn đây là “đức lành”. Như Kinh A Di Đà nói:
“Nếu có người thiện nam,
người thiện nữ nghe nói đến Đức Phật. A Di Đà rồi hoặc trong một ngày, hoặc hai
ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày,
chấp trì danh hiệu nhứt tâm bất loạn. Người này đến lúc lâm chung, Đức Phật A
Di Đà và hàng Thánh chúng hiện ra nơi trước, người lúc chết tâm hồn không điên
đảo, liền đặng vãng sanh về nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”.
Kinh Lăng Nghiêm có câu
: “Các Đức Như Lai trong mười phương thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con”. Lại
có câu : “Người nào niệm danh hiệu Phật,
thời hào quang của Phật chiếu đến người đó, làm cho các sự tai vạ tà ma, quỷ
quái không đến gần được”.
Oai lực linh thông của Phật vô cùng, đức dày của Phật lại vô cực nên văn nói: “Oai linh đức cả đã dành vô biên”.
Từ đây nhẫn lên là giải một đoạn 4 câu kệ về phần tán thán công đức của
Phật:
Mười phương chư Phật ba đời.
Di Đà bậc nhứt chẳng rời quần sanh.
Sen vàng chín phẩm sẵn dành.
Oai linh đức cả đã dành vô biên.
Đức Phật A Di Đà sẵn đức từ bi nguyện lực, dùng chín phẩm liên hoa báu để chờ tiếp dẫn chúng sanh nào muốn sanh về nước của Ngài; nên trong văn nói : “Sen vàng chín phẩm sẵn dành”.
HÂN TỊNH TỲ KHEO
Cẩn Chí
NIỆM PHẬT “THÀNH TỰU” NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
(Trừ người hủy báng Tam Bảo)
KINH-VĂN:
Hạ phẩm hạ sanh là thế nào? Hoặc có chúng sanh tạo tội ngũ nghịch thập ác, làm đủ các việc chẳng lành; kẻ ngu ấy do nghiệp ác đáng lẽ phải bị đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng. Nhưng khi lâm chung, người này nhờ gặp thiện tri thức dùng nhiều cách an ủi, nói phép mầu cho nghe, lại dạy bảo tưởng niệm Phật. Đương nhơn tuy nghe lời dạy, song vì sự khổ bức ách, không yên rảnh để quán tưởng đức Vô Lượng Thọ Như Lai. Thấy thế, thiện hữu lại bảo: "Nếu ông không thể tưởng đức Phật kia thì nên chí thành xưng "Nam Mô A Di Đà Phật" tiếng tăm liên tiếp không dứt cho đủ mười niệm". Hành giả vâng lời. Và do nhờ xưng danh hiệu Phật nên mỗi mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Khi mạng chung, người ấy thấy hoa sen vàng rực rỡ như vầng nhật hiện ra trước mặt. Trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Như thế mãn mười hai đại kiếp hoa sen mới nở. Khi hoa nở, hai vị Ðại Sĩ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng tiếng đại bi vì hành giả nói rộng về Thật Tướng của các pháp và cách trừ diệt tội chướng. Đương nhơn nghe rồi thân tâm vui đẹp, liền phát lòng Vô Thượng Bồ Ðề. Đây là cảnh hạ phẩm hạ sanh.
Môn tưởng trên gọi là hạ bối vãng sanh, thuộc về pháp quán thứ mười sáu.
SỚ-GIẢI :
Tội ngũ nghịch là: giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá sự hòa hợp của chư Tăng, và làm cho thân Phật ra máu. Vì năm tội này trái ân phụ đức, nên gọi là "nghịch." “Thập ác” là ba nghiệp dữ của thân, bốn nghiệp dữ của miệng, và ba nghiệp dữ của ý; tất cả ác nghiệp đều nhiếp về mười điều này. "Mười niệm" ước về số ít là mười câu, nhiều là mười hơi.
Hỏi: Theo kinh Vô Lượng Thọ, đoạn bốn mươi tám điều đại nguyện, có câu "duy trừ những người tạo ngũ nghịch và báng chánh pháp, ngoài ra đều được vãng sanh." Nay trong chương hạ phẩm hạ sanh của Quán kinh đây lại nhiếp thủ người tạo ngũ nghịch, không thâu kẻ báng chánh pháp là ý thế nào?
Đáp: Việc ấy nên hiểu theo nghĩa Ức Chỉ Môn, tức là lời nói ngăn đón trong Phật pháp. Bởi người đã tạo tội ngũ nghịch tất nghiệp chướng rất nặng nề, khó hồi tâm hướng về Chánh Pháp, nên đức Như Lai mới nói lời rào đón trước, để cho kẻ ấy được dễ dàng trong sự vãng sanh. Nếu người tạo ngũ nghịch, thập ác mà biết hồi tâm niệm Phật, tất đức Phật sẵn sàng tiếp dẫn. Chư Phật lòng từ vi vô lượng, đối với kẻ lỗi lầm biết quay đầu về hướng thiện, lẽ nào lại không tiếp độ? Cho nên Quán Kinh nhiếp thủ người tạo ngũ nghịch là bởi ý đó.
Trong kinh đây không nói đến kẻ báng pháp là bởi nếu đã tạo tội nặng mà biết tin tưởng Chánh Pháp thì còn có thể hóa độ, bằng trái lại thì dù có khuyên bảo chỉ e luống vô công. Tuy nhiên, nếu có người trước kia không tin tưởng, thường phỉ báng Chánh Pháp sau bị tai nạn, hay thấy ác tướng, hoặc gặp duyên sự gì, biết thức tỉnh trở lại nẻo chánh chơn thì chư Phật với tâm bình đẳng từ bi vẫn sẵn sàng tiếp độ. Vì thế, kinh Quán Phật Tam Muội nói: "Nếu trong hàng tứ chúng có kẻ báng kinh Ðại Thừa, tạo tội ngũ nghịch, phạm bốn trọng giới, mà biết chí tâm hệ niệm quán tưởng một tướng hảo của Phật trong một ngày đêm thì các tội chướng thảy đều tiêu diệt." Thế thì những kẻ báng Chánh Pháp nếu có thể hồi tâm, tất đều vãng sanh chớ chẳng phải là không được thâu nhiếp đâu!
Nhưng người báng Chánh Pháp dù được vãng sanh, phải ở trong hoa sen trải qua nhiều kiếp. Trong thời gian lâu xa ấy, đương nhơn tuy hưởng sự vui như Tam Thiền, song còn ba điều chướng là: không được thấy Phật và Thánh Chúng, không được nghe Chánh Pháp, không được thừa sự cúng dường các đức Thế Tôn. Tuy thế, cũng còn hơn là kẻ không hồi tâm để bị đọa vào địa ngục A Tỳ!
Về hạ phẩm vãng sanh đến đây đã xong.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
KINH-VĂN:
Khi đức Thế Tôn nói lời ấy rồi, Vi Đề Hy phu nhơn cùng năm trăm thị nữ liền thấy tướng rộng dài của thế giới Cực Lạc, sắc thân của Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát. Tất cả đều sanh lòng vui mừng, khen là việc chưa từng có. Phu nhơn hoát nhiên đại ngộ, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nguyện sanh về Cực Lạc. Đức Thế Tôn thọ ký cho tất cả đều được vãng sanh và sau khi sanh về Tịnh Ðộ đều chứng Chư Phật Hiện Tiền tam muội.
SỚ-GIẢI :
Vô lượng chư thiên phát tâm vô thượng Bồ Ðề.
Trước chỉ nói bà Vi Đề Hy thấy cõi Cực Lạc, nay lại thuyết minh năm trăm thị nữ đều thấy, đây là mật ý chỉ cho phu nhơn và năm trăm thị nữ đều có nhơn duyên với miền An Dưỡng.
Hỏi: Luận Vãng Sanh nói:
"Người nữ, kẻ căn thiếu;
Nhị thừa chủng không sanh".
Như thế tại sao trong kinh này Phật lại ấn hứa cho người nữ được vãng sanh?
Đáp: Đó là ý nói ở Cực Lạc không có người nữ cùng kẻ sáu căn không đủ, chứ chẳng phải nữ nhơn và kẻ thiếu căn niệm Phật không được vãng sanh đâu! Còn "Nhị Thừa chủng" là chỉ cho hàng định tánh Thanh Văn lấy quả Vô Dư Niết Bàn làm cứu cánh, không tin có cõi Cực Lạc. Nếu những vị này hướng về Ðại Thừa, phát tâm niệm Phật tất đều được vãng sanh.
Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ Sao
Ðời Lưu Tống ngài Cương Lương Gia Xá dịch
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
HỎI
:
Thế giới Cực Lạc có một
“PHỤ NỮ”, vậy thì A Di Đà Phật không thể thành Phật?
ĐÁP :
1.- Giả sử khi tôi thành
Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, “SÚC SANH” thì tôi chẳng lấy ngôi
chánh giác.
...
KINH VÔ LƯỢNG THỌ
Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có những giống chim
mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch-hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi,
Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hoà
nhã.
Tiếng chim đó diễn nói những pháp như Ngũ-căn, Ngũ-lực,
Thất-bồ-đề phần, Bát-thánh-đạo phần..v..v.. Chúng-sanh trong cõi đó nghe tiếng
chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!
Xá- Lợi- Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo
sanh ra.
Vì sao? Vì cõi của Đức Phật đó không có ba đường dữ.
Xá- Lợi- Phất! Cõi của Đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại
có sự thật. Những giống chim đó là do Đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp
được tuyên lưu mà biến hoá làm ra đấy thôi.
Xá- Lợi- Phất! Trong cõi nước của Đức Phật đó, gió nhẹ
thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu,
thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hoà chung.
Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của Đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
PHẬT THUYẾT KINH A-DI-ĐÀ
CHÂU THỊ
MẤY ĐIỆU SEN THANH
Nhà lan thanh vắng, giậu
cúc lơ thơ, trời thu phân cảnh vật tiêu sơ, người liên nữ bền lòng TÍN NGUYỆN!
Đó là gia cảnh của Châu thị, và bà đang theo thời khóa thành tâm niệm Phật.
Châu thị nguyên là vợ
của họ Chương. Từ trẻ bà đã biệt thờ kính Quán Thế Âm đại sĩ, TIN SÂU NHÂN QUẢ,
từ hòa hiếu thuận và ưa thích điều lành. Đến sáu mươi tám tuổi, Châu thị mới
được nghe biết sự lợi ích của pháp môn Tịnh độ, liền trường trai niệm Phật ra
TIẾNG một muôn câu, ngoài số ấy đều tùy thời tùy cảnh niệm THẦM.
Công phu hành trì như
thế đã trải hơn mười năm. Mấy năm sau cùng vì tránh sự phiền nhiễu, Châu thị
thường tĩnh tọa nơi gian nhà riêng, sự tu trì càng thêm mật thiết. Có đôi lúc
bà ngồi yên nhắm mắt hướng về Tây, luôn hai ba ngày không ăn uống nơi cổ tay
MẠCH không còn nhảy; duy có nét mặt sáng tươi, toàn thân nóng ấm. Sau khi ấy,
người nhà hỏi về tình trạng lúc đương thời, bà đáp:
“Ta thấy mình ngồi niệm Phật trên tòa sen to đẹp, quên hẳn
thời khắc, lòng rất sáng nhẹ an vui!”
Đến năm Dân Quốc thứ hai
mươi, vào khoảng tháng sáu, Châu thị bỗng cảm bịnh. Đứa con trai suất lãnh
người nhà luân phiên trợ niệm. Vài hôm trước khi mãn phần, bà nói với gia thuộc
rằng: “Ta còn lưu trụ hai ngày nữa, các con nên tạm nghỉ ngơi. Hãy chuẩn bị nấu
nước thơm cho ta tắm gội, và y phục giày dép đều phải đổi thứ mới sạch!”
Hai hôm sau, vào giờ Tỵ,
bà ngồi ngay thẳng hướng về Tây, nhắm mắt không nói năng chi cả. Con trai thấy
thế, lại gọi người nhà vây quanh, đồng cao tiếng niệm Phật. Độ vài mươi phút kế
đó, Châu thị ngồi yên ổn mà tắt hơi, gương mặt lộ nét tươi vui hòa nhã. HƠN HAI
GIỜ SAU, đảnh đầu của bà hãy còn nóng.
Có điều đáng kỳ diệu là
đang lúc làm lễ nhập liệm, đứa cháu nội gái của bà, vì quá thương khóc nên ngã
xuống hôn mê. Mẹ đứa bé này tức là dâu của Châu thị, cũng đã niệm Phật vãng
sanh từ mấy năm về trước. Khi được người nhà vực tỉnh dậy, bé gái nói:
“Con thấy từ phương Tây
phóng tới ánh sáng to rộng rực rỡ. Đức Quán Thế Âm thân tướng nghiêm đẹp, tay
cầm cành dương liễu, theo sau có vô số Bồ Tát nương giữa hư không bay
đến. Trong giây phút mẹ cùng bà nội thân tướng cao lớn tươi tốt hơn
lúc bình thường, theo sau chư Bồ Tát bay về phương Tây.
Ngoài ra lại còn có vô
số hoa lạ, tràng phan bảo cái hiện giữa hư không, tất cả cảnh vật đều trang
nghiêm rực rỡ khác thường. Trông thấy cảnh ấy lòng con chợt an vui, quên hẳn sự
xót xa thương khóc. Bấy giờ con không còn lo buồn nữa, vì biết rõ mẹ và bà nội
đã về cảnh Phật!”
LỜI BÌNH:
Phàm sanh về Cực Lạc,
không luận Trai gái già trẻ, đều hiện thành THÂN NAM đủ ba
mươi hai tướng tốt. Đứa bé thấy mẹ cùng bà nội đều còn thân NGƯỜI NỮ,
đó là phương tiện hiện ra tướng cũ, để cho nó dễ nhận biết. Độc giả khi xem đến
đoạn nầy, CHỚ HOÀI NGHI!
CỰC LẠC DU LÃM KÝ
Hòa Thượng Thích THIỀN-TÂM dịch
Theo trong KINH, ở thế giới Cực-Lạc không có nam nữ phân biệt,
tại sao nơi đây lại hiển hiện nhiều hài tử ?
Ngài đáp:
- Đúng như thế, ở đây không phân tướng nam nữ, ngươi hãy tự
nhìn kỹ lại xem mình thế nào?
Bị Bồ-Tát cảnh báo, tôi kinh lạ chợt phát hiện ra mình cũng
biến thành thân Nữ-hài 13 tuổi, trang-phục đồng một dạng thức như các nữ-chúng kia.
Tôi tiếp tục hỏi với giọng đầy-kinh ngạc:
- Tại sao lại như thế này?
Đức Quán-Thế-Âm lộ vẻ từ-bi mỉm cười bảo:
- Nơi đây có một vị Bồ-Tát làm chủ-tể, muốn biến nam thì toàn
chúng đều hóa thành nam, muốn biến nữ thì toàn chúng thành nữ. Kỳ thật, chẳng
luận biến nam hay nữ, khi đã hóa sinh trong hoa sen, tức không còn thân huyết
nhục, thể-chất đều là ngọc báu trong suốt, bên ngoài chỉ có tướng người, thật
ra không phân nam nữ.
Tôi quan sát lại thân thể mình quả đúng như lời Bồ-Tát nói,
không thấy da thịt, xương, gân, tủy, não, chỉ là chất ngọc thủy tinh trong
trắng.
PHẨM THỨ BẢY
ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN
NIỆM PHẬT VỚI “TỊNH-MẬT VIÊN THÔNG”
Một câu A Di Ðà
Là một tạng bí mật.
Phát nguồn cội thần thông
Ðầy đủ uy lực lớn.
(Nhứt cú Di
Ðà
Nhứt tạng bí mật.
Phát bản thần thông
Cụ đại uy lực.)
Lược giải:
Câu niệm Phật đã gồm ba tạng của Hiển
giáo lại cũng đủ thần thông uy lực của bí tạng Mật giáo. "Bản thần
thông" là thần thông sẵn có, phát sanh từ nguồn gốc chân tâm, không phải
do tập luyện mà được. Niệm Phật công thuần đến mức thanh tịnh, cũng như người
có sẵn tiền muốn mua món gì cũng được. Dùng công đức niệm Phật để cầu an, cầu
siêu, trừ tai nạn, trị đau bịnh, hàng tà ma, sám tội chướng, cầu phước huệ
duyên lành, nguyện sanh lên cung trời hoặc về cõi Phật, cho đến cầu Ðại Niết
Bàn cũng đều thành tựu. Tất cả uy lực thần thông cũng từ câu niệm Phật mà phát
sanh. Như thuở xưa, Thiện Ðạo đại sư khi niệm Phật, mỗi câu đều có một luồng
ánh sáng phóng ra. Một Ðại sư về Tịnh tông bên Nhật Bản, mỗi câu niệm hồng
danh, trong miệng bay ra một vị Phật. Liên Trì đại sư lúc dân chúng nhờ đảo võ,
ngài chỉ ra ngoài đồng gõ mõ niệm Phật, đi tới đâu mưa rơi đến đó. Niệm Phật
tùy ý phát ra thần thông uy lực là như thế.
Kinh Hoa Nghiêm
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo.
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
TRƯỞNG-GIẢ DIỆU-NGUYỆT nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ta được bồ-tát giải-thoát tên là “TỊNH-TRÍ-QUANG-MINH”.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát nầy. Như chư đại Bồ-Tát chứng được vô-lượng môn giải-thoát. Ta thế nào biết được nói được công-đức hạnh ấy.
Nầy Thiện-nam-tử! Phương nam có thành Xuất-Sanh. Nơi đó có trưởng-giả tên là Vô-Thắng-Quân.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Thiện-Tài đảnh lễ trưởng-giả Diệu-Nguyệt, hữu nhiễu vô-số vòng, từ tạ đi qua phương nam, đến đảnh lễ trưởng-giả Vô-Thắng-Quân, cung kính thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo.
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Vị thiện tri thức 47
TRƯỞNG-GIẢ DIỆU-NGUYỆT
DẠY
THIỆN-TÀI VỀ MÔN “TỊNH-TRÍ-QUANG-MINH”
Khi “NIỆM PHẬT” hay “TU BẤT CỨ MÔN
NÀO” dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh
sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối
đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
TỨC LÀ THÀNH TỰU MÔN “TỊNH-TRÍ-QUANG-MINH”
Nhược nhân dục thức Phật cảnh giới,
Đương tịnh kỳ ý như hư không,
Viễn ly vọng tưởng cập chư thủ,
Linh tâm sở hướng giai vô ngại.
Dịch nghĩa:
Nếu người muốn biết cảnh giới Phật,
Ý căn thanh tịnh như hư không,
Xa lìa vọng tưởng và chấp thủ,
Khiến tâm khắp nơi đều vô ngại.
Cảnh giới Phật là gì?
Không và hữu thay phiên hiển bày, lý sự vô ngại, một tức
nhiều, nhiều tức một, lớn vào nhỏ, nhỏ vào lớn là cảnh giới Phật vậy. Do đó
được biết, một hạt bụi, một giọt nước cho đến vi trần số cõi Phật Hoa Tạng Hải
đều là cảnh giới Phật cả. Nhưng các ngươi tay chỉ mắt nhìn, trên là trời, dưới
là đất, vận hành là nhựt nguyệt. Tịnh mà trụ gọi là núi, động mà chảy gọi là
sông, hữu tình là người, vô tình là vật. Cảnh giới Phật ngay trước mắt mà lại
chẳng thấy, thực là thật đáng thương xót! Tại sao vậy?
Chỉ vì các ngươi nơi ý căn chưa từng thanh tịnh, nên có đủ thứ
vọng tưởng, đã có vọng tưởng là có phân biệt, đã có phân biệt thì kẹt vào danh
tướng, đã kẹt vào danh tướng nên thấy trời chỉ là trời, thấy đất chỉ là đất,
thấy núi sông chỉ là núi sông, thấy người vật chỉ là người vật; lại ở nơi danh
tướng vọng sanh đủ thứ chấp trước, như chấp núi sông người vật, lại còn ở nơi
chấp trước sanh ra đủ thứ chướng ngại, cũng như bị sắc, thinh, hương, vị chướng
ngại, bị núi, sông, người, vật, vạn tượng sum la chướng ngại, vì ở khắp nơi đều
bị chướng ngại, nên muốn thấy cảnh giới Phật lại càng khó hơn nữa.
Dù vậy, nếu ông chân
thật muốn thấy cũng chẳng khó, chỉ cần đem các thứ vọng tưởng, chấp trước,
chướng ngại ấy, mỗi mỗi đều xoay trở về tự tánh, khiến cho nơi ý căn thanh tịnh
như hư không. Ở trên đỉnh đầu mở ra chánh nhãn (tham ngộ), chiếu soi khắp
thế gian. Như vậy thì trời là cảnh giới Phật, đất cũng là cảnh giới Phật, núi
sông người vật, hạt bụi giọt nước, cho đến vi trần số cõi Phật thế giới, không
nơi nào chẳng phải là cảnh giới Phật cả. Đang lúc ấy luôn cả vọng tưởng, chấp
trước, chướng ngại cũng đều là cảnh giới Phật rồi vậy.
Cảnh giới như thế, phi hữu phi không, phi lý phi sự, phi nhất
phi đa, phi tiểu phi đại, phi mê phi ngộ, phi tu phi chứng, gọi là cảnh giới
Phật cũng được, chẳng gọi là cảnh giới Phật cũng được. Vi diệu như thế bất khả
thuyết, viên dung như thế bất khả thuyết, tự tại vô ngại như thế bất khả
thuyết, chứng ngộ giải thoát như thế bất khả thuyết, công đức lợi ích như thế
bất khả thuyết. Ấy gọi là bất khả thuyết lại thêm bất khả thuyết của cảnh giới
Phật. Các ngươi ở nơi cảnh giới Phật này đã từng đích thân đi đến chưa?
Nếu chưa đến nơi, cần phải nghe ta từ đầu nói trắng ra:
Nếu ngươi muốn biết cảnh giới
Phật (Là trên đầu lại sanh thêm đầu).
Ý căn thanh tịnh như hư không (Vì có ai bị ô nhiễm đâu?)
Xa lìa vọng tưởng và chấp thủ (Là vạch sóng để tìm nước).
Khiến tâm khắp nơi đều vô ngại (Thì trước mắt đều là núi xanh).
Nói trắng ra rồi đó. Chớ nên hiểu lầm!
Xưa kia Thế Tôn ở nơi
pháp Bồ Đề tràng mới thành chánh giác, than rằng: “Lạ thay! Nay Ta thấy khắp tất cả chúng sanh đều đủ cả đức
tướng trí tuệ của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trước mà chẳng chứng đắc”. Vậy Phật đã đem hết sự sở chứng tỏ bày rồi, các ngươi
hiện đang ở nơi pháp Bồ Đề Tràng, mỗi người đầu đội hư không, chân đạp quả đất
mà chẳng thành Chánh Giác là tại sao? Vì vọng tưởng chấp trước chưa dứt, đại
tâm Bồ Đề chưa phát.
Mê thì Bồ Đề là vọng tưởng,
Ngộ thì vọng tưởng là Bồ Đề.
Muốn thành Chánh Giác cần phải phát tâm Bồ Đề, nên Kinh nói:
“Tâm Bồ Đề cũng như chủng tử, vì hay sanh tất cả Phật pháp; tâm Bồ Đề cũng như
đại địa, vì hay trì tất cả thế gian; tâm Bồ Đề cũng như nước trong sạch, vì hay
rửa tất cả cấu bẩn phiền não; tâm Bồ Đề cũng như gió lớn vì thổi khắp thế gian
đều vô ngại; tâm Bồ Đề cũng như xe lớn, vì hay chuyên chở chư Bồ Tát; tâm Bồ Đề
cũng như đại đạo (đại lộ), Vì hay khiến chúng sanh được vào thành đại
trí; tâm Bồ Đề cũng như vườn hoa, vì cho chúng sanh ở nơi đó du hí thọ pháp
lạc; tâm Bồ Đề giống như hạt châu như ý vì hay cấp cho tất cả người nghèo khổ
được no ấm”.
Lành thay! Lành thay! Tâm Bồ Đề có công đức như thế.
Nếu đã phát tâm Bồ Đề, đương nhiên phải tu hạnh Bồ Tát, hạnh
Bồ Tát nếu chẳng tu, thì tâm Bồ Đề thành vọng phát. Há chẳng thấy Thiện Tài
đồng Tử khi tham vấn mỗi thiện tri thức đều nói: “Con đã phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề mà con chưa
biết làm sao học hạnh Bồ Tát, làm sao tu đạo Bồ Tát. Nghe nói bậc Thánh hay dạy
bảo cách khéo léo, xin vì con mà thuyết”. Ấy là cái gương của Thiện Tài Đồng Tử phát tâm tu hành.
Do đó được biết, dù có nghe nhiều, nếu chẳng chịu tu hành thì cũng bằng người
chẳng nghe, như người chỉ nói ăn mà chẳng ăn thì làm sao được no.
Thanh tịnh pháp thân Tỳ
Lô Giá Na giấu trong một lỗ chân lông, biển hạnh nguyện của Phổ Hiền rải khắp
trên trăm đầu ngọn cỏ.
Dầu ở nơi một lỗ chân
lông, rõ ràng là dựng đất chỏi trời; dù ở nơi trăm đầu ngọn cỏ, rốt cuộc quét
sạch dấu tích. Các ngươi muốn thấy một lỗ chân lông chăng?
_ Chiều dọc thì
xuyên qua tam tế (quá khứ, hiện tại, vị lai), chiều ngang thì
rộng khắp mười phương; muốn thấy trăm đầu ngọn cỏ chăng?
_ Tia lửa ánh chớp không kịp nháy mắt. Có khi
một lỗ chân lông nuốt hết trăm đầu ngọn cỏ, có khi trăm đầu ngọn cỏ hiện ra một
lỗ chân lông, có khi một lỗ chân lông tức là trăm đầu ngọn cỏ, có khi trăm đầu
ngọn cỏ tức là một lỗ chân lông; khiến cho Phật Tỳ Lô Giá Na, Bồ Tát Phổ Hiền
hòa thành một khối, làm cho tất cả chúng sanh tìm mãi chẳng ra, chen thân chẳng
lọt, dùng sức chẳng đụng, chân đạp chẳng vững, vốn chẳng định thể, cũng chẳng
định danh.
Có khi gọi là nhất chân pháp giới, có khi gọi là
đại quang minh tạng, có khi gọi là pháp Bồ Đề Tràng, có khi gọi là diệu trang
nghiêm thành, có khi gọi là nghĩa lục tướng, có khi gọi là Thập Huyền Môn, hoặc
nói ám hiệu tử, hoặc nói Bản Lai Nhân, cho đến dùng nó thành cây gậy, biến nó
thành tiếng hét. Thả đi thu lại, muôn ngàn sai biệt, đến khi tẩy sạch triệt để
khám phá cuối cùng (kiến tánh), vốn chỉ là một mình tự kỷ! Cái tự kỷ này, ở
trời thì đồng với trời, ở đất thì đồng với đất, nơi người thì đồng với người,
nơi vật thì đồng với vật. Trên bổn phận tự kỷ, hoặc nói bổn cụ (vốn đầy đủ),
hoặc nói bổn không (vốn trống rỗng), hoặc nói mê và ngộ, hoặc nói tu và chứng,
bày ra đủ thứ dây trói buộc, kỳ thật:
Gió xuân chẳng thấp cao,
Nhánh hoa tự ngắn dài.
Nhớ lại Thiện Tài Đồng Tử tham vấn khắp miền nam năm mươi ba
vị thiện tri thức, sau cùng gặp Bồ Tát Phổ Hiền, bảo phát mười đại nguyện, dẫn
dắt vãng sanh lạc độ. Dù nói vãng sanh, thực là hiển thị pháp vốn vô sanh vậy.
Vì đã nói nhất thiết duy
tâm tạo, thì lạc độ đâu phải ở ngoài tâm? Nên nói tâm tịnh thì Phật độ tịnh.
Duy tâm tịnh độ diệu như
thế,
Kẻ tâm chưa tịnh khó liễu tri.
1
CÂU “CHUYỂN-NGỮ” ĐƯỢC GIẢI THOÁT KIẾP
“CHỒN”
Thuở xưa, có người đến hỏi một vị Thiền sư:
"Bậc tu hành đã ngộ lý Chân Không, có lạc vào vòng
Nhân Quả chăng ?".
Thiền sư đáp:
"Bậc đại tu hành chẳng “LẠC” vào vòng Nhân Quả".
Vì câu trả lời này mà khiến cho Thiền
Sư phải đọa
làm kiếp chồn năm trăm năm, sau gặp ngài Bá Trượng “TRẢ LỜI CHUYỂN NGỮ” mới được giải thoát.
TRẢ LỜI CHUYỂN NGỮ
HỎI : Bậc tu
hành đã ngộ lý Chân Không, có lạc vào vòng Nhân Quả chăng ?
ĐÁP : Bậc đại tu hành chẳng “HIỂU SAI LẦM” nhân Quả.
KINH NHÂN QUẢ BA ĐỜI
PHẦN LƯU-THÔNG
PHẨM THỨ BẢY
KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT và
ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN
ĐỂ LƯU THÔNG BỘ KINH KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT
MỤC-LỤC
CHUNG
NGHI THỨC TỊNH ĐỘ PHỔ THÔNG
I.- LỄ-BÁI SÁM-HỐI
(Trước khi trì tụng, nên súc miệng, rửa mặt, rửa tay sạch sẽ, rồi mặc áo tràng, đốt hương, kế chắp tay đứng trước bàn Phật đọc bài kệ tán Phật, tiếp theo lễ bái.)
Pháp vương vô-thượng tôn
Tam-giới vô luân thất
Thiên nhơn chi Ðạo-sư
Tứ-sanh chi từ-phụ
Ư nhứt niệm quy-y
Năng diệt tam-kỳ nghiệp
Xưng dương nhược tán-thán
Ức kiếp mạc năng tận.
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
PHỔ-LỄ CHƠN-NGÔN
ÁN --PHẠ NHỰT RA VẬT (7 lần)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trụ Tam-Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)
Thập phương Tam-thế Phật
A-Di-Đà đệ nhứt,
Cửu phẩm độ chúng-sanh
Oai-đức vô cùng cực,
Ngã kim đại quy-y.
Sám-hối tam nghiệp tội,
Phàm hữu chư phước thiện,
Chí tâm dụng hồi-hướng.
Nguyện đồng niệm Phật nhơn,
Cảm ứng tùy thời hiện,
Lâm chung Tây-phương cảnh,
Phân-minh tại mục tiền,
Kiến văn giai tinh tấn,
Đồng sanh Cực-lạc quốc,
Kiến Phật liễu sanh-tử,
Như Phật-độ nhứt-thiết,
Vô-biên phiền-não đoạn,
Vô-lượng pháp môn tu;
Thệ nguyện độ chúng-sanh,
Tổng giai thành Phật đạo;
Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,
Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,
Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như-Lai,
Tam giả quảng tu cúng-dường,
Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,
Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy Phật học,
Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,
Thập giả phổ giai hồi-hướng.
Nguyện tương dĩ thử thắng công-đức,
Hồi-hướng vô-thượng chơn pháp-giới,
Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng-già,
Nhị đế dung thông tam-muội ấn,
Như thị vô-lượng công-đức hãi,
Ngã kim giai tất tận hồi-hướng,
Sở hữu chúng-sanh thân, khẩu, ý,
Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng,
Như thị nhứt thiết chư nghiệp-chướng
Tất giai tiêu-diệt tận vô dư,
Niệm niệm trí châu ư pháp-giới,
Quảng độ chúng-sanh giai bất thối,
Nãi chí hư-không thế-giới tận,
Chúng-sanh cập nghiệp phiền-não tận,
Như thị tứ pháp quảng vô-biên,
Nguyện kim hồi-hướng diệc như-thị.
Nam-mô Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát MA-HA-TÁT. (3 lần)
(Đứng lên chấp tay xướng)
Ðệ-tử Sám-hối, phát-nguyện rồi, chí-tâm đảnh-lễ Tam-bảo. (1 lạy)
II.- TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT
(Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật; chắp tay niệm)
TỊNH PHÁP GIỚI
ÁN LAM (7 lần)
TỊNH KHẨU NGHIỆP
TU RỊ TU RỊ MA HA TU RỊ TU TU RỊ TA-BÀ-HA (3 lần)
TỊNH BA NGHIỆP
ÁN TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ,
ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM (3 lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG
ÁN NGA NGA NẴNG TAM BÀ PHẠ PHIỆT NHỰT RA HỒNG (3 lần)
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Cúi lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Con nay phát nguyện rộng
Thọ trì KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát Bồ-Đề TÂM
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
Nam-mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)
(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)
Quang, thọ khó suy lường,
Sáng lặng khắp mười phương.
Thế Tôn Vô Lượng Quang,
Cha lành cõi Liên ban.
Thần lực chẳng tư nghì,
Sống lâu A tăng kỳ.
A Di Đà Như Lai,
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh,
Công đức lạ trang nghiêm.
Nơi tất cả quần sanh,
Vượt lên ngôi Bất thối.
Mười phương hằng sa Phật.
Đều ngợi khen Vô Lượng.
Cho nên hôm nay con,
Nguyện sanh về An Dưỡng.
Nam mô Liên trì hải hội Phật Bồ Tát. (3 lần)
(Tiếp tụng)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(7 hoặc 108 lần)
Khể thủ tây phương An-Lạc quốc
Tiếp dẫn chúng-sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ-bi ai nhiếp thọ
Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu, cập pháp-giới chúng-sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô-thượng bồ-đề đạo-cố, chuyên tâm trì niệm A-Di-Đà-Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh tịnh-độ. Duy nguyện Từ-Phụ A-Di-Đà Phật ai lân nhiếp thọ từ-bi gia hộ.
NAM-MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A-DI-ĐÀ PHẬT.
(Kế tiếp niệm)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
(Đứng lên đi nhiễu quanh bàn Phật, vừa niệm hồng danh : đi ba vòng hoặc nhiều vòng rồi trở lại ngồi. Nên niệm ra tiếng nho nhỏ theo pháp : “THẬP-NIỆM KÝ-SỐ” lấy 10 câu làm 1 đơn vị, hoặc chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu : cứ hết 10 câu lần qua hột chuỗi.
Khi niệm đủ số hạn định, quỳ trước bàn Phật, xưng danh hiệu TỨ THÁNH và đọc bài văn phát nguyện hồi hướng).
III. PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
Nam mô A Di Đà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (10 lần)
Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát (10 lần)
NGUYỆN
A-Di-Ðà Phật, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thinh phân minh, diện phụng Di-Ðà, dữ chư thánh-chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.
Nhứt sát na khoảng, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ-Tát đạo, quảng độ chúng sanh đồng thành chủng-trí.
Chí tâm đảnh lễ : Nam-Mô A-Di-Ðà Phật Thế-Tôn.
Nguyện ngã Tội chưóng tất tiêu diệt (1 lạy)
Nguyện ngã Thiện căn nhựt tăng trưởng (1 lạy)
Nguyện ngã Thân tâm hàm thanh-tịnh (1 lạy)
Nguyện ngã Nhứt tâm tảo thành tựu (1 lạy)
Nguyện ngã Tam muội đắc hiện tiền (1 lạy)
Nguyện ngã Tịnh nhơn tốc viên mãn (1 lạy)
Nguyện ngã Liên đài dự tiêu danh (1 lạy)
Nguyện ngã Kiến Phật ma đảnh ký (1 lạy)
Nguyện ngã Dự tri mạng chung thời (1 lạy)
Nguyện ngã Vãng sanh Cực Lạc Quốc (1 lạy)
Nguyện ngã Viên mãn Bồ tát đạo (1 lạy)
Nguyện ngã Quảng độ chư chúng-sanh (1 lạy)
Chí tâm qui mạng đảnh lễ Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai biến pháp giới Tam bảo (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
CHUNG
HOA-NGHIÊM NGUYÊN-NHÂN LUẬN của Sa-môn TÔNG-MẬT, chùa QUÊ-PHONG.
Có một độ, bút giả (Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm) vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
Lời bàn: Thông thường người tụng kinh đều tìm kiến giải, rồi theo kiến giải mà thực hành, như theo Hòa Thượng thì quên hết mọi điều kiến giải, đọc từ đầu đến cuối, thì mới hợp với “CHƠN TÂM BỔN TÁNH”.
Cũng như lìa sáu trần: Sắc, Thanh, Hương,Vị, Xúc, Pháp mà có sự hiểu biết , thì đó mới là CHƠN TÂM của chính mình. (KINH LĂNG NGHIÊM)
KINH
PHẬT-ĐẢNH TÔN-THẮNG
ĐÀ-RA-NI
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN
III. PHẦN LƯU-THÔNG
Pháp Hoa Cương Yếu
HT Thích Trí Tịnh
26.- ÐÀ-LA-NI PHẨM
Dầu trước đả hiển diệu-hạnh, y diệu-hạnh, sẽ thành diệu-quả, ngặt vì tạng thức kín sâu, nhiễm huân đã nhiều kiếp tập-khí tiềm phục nhiều đời nếu không nhờ sức da-trì, để da hộ chỉ quán, chống vững định-huệ, thời khó trừ tận tuyệt, vì thế nên phẩm này cùng hai phẩm kế để hiển biểu tượng của ba môn da trì. 3 môn da trì là:
1.- Thần lực da-trì
2.- Pháp lực da-trì
3.- Hiện thân diện ngôn thuyết da-trì
Thần-lực da-trì chính là phẩm này:
Bởi vì thức-tạng là hang vực của hai loại sanh tử rất sâu rất kín. Tập khí tiềm phục trong đó, sức chỉ cùng quán khó có thể vào đến, vào còn không đến được thời thế nào dứt trừ được, dứt trừ không được thời bị nó làm tổn. Do đó nên cần phải nhờ sức tổng trì thần chú để công phạt tập-khí, vì tổng-trì là tâm ấn bí mật của chư Phật vậy.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu người tu hành tập khí chưa trừ, nên phải chuyên lòng tụng thần chú của Ta”.
Kinh Lăng-Già nói: “Nếu không dùng thần-lực kiến-lập đó thời đọa vào vọng-tưởng ác-tri-kiến ngoại đạo ...”
Cho nên từ đệ Thất-địa trở lại mà không da-trì thời lạc ngoại đạo; đệ Bát-địa không da-trì thời trụ nhị-thừa: đệ Cửu-địa đến Ðẳng-giác không da-trì thời không thể nhập Diệu-giác. Cho nên cần phải da-trì vậy.
“BÁT-NHÃN TÂM-KINH” nói rằng :
Quán-tự-tại Bồ-tát “QUÁN THẤY”...
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức;
( không có ngũ-uẩn)
vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp;
( không có 12 nhập)
vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới;
(không có 18 giới)
vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận;
(không có 12 nhân duyên)
vô khổ, tập, diệt, đạo;
(không có 4 đế)
vô trí diệc vô đắc.
(không có TRÍ của Bồ-tát do tu Lục-độ, cũng không có ĐẮC qủa Phật)
Lại nói, Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
(Ba đời “Chư Phật” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA”)
Còn nói, Bát-nhã là Đại-thần, là đại minh, là vô-thượng, là vô đẳng đẳng chú... như lại phải nhờ thần-chú “Yết-đế Yết-đế, Ba-la yết-đế, Ba la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.”, để tiêu trừ vô-minh vi tế của “A-LẠI-DA THỨC” (sở tri chướng), mà thành tựu “ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ” hay “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”, TỨC THÀNH PHẬT.
Tóm lại, “QUÁN-TỰ-TẠI BỒ-TÁT” y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA”
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức;
Lại nói, Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
Còn nói, Bát-nhã là Đại-thần, là đại minh, là vô-thượng, là vô đẳng đẳng chú... như lại phải nhờ thần-chú “Yết-đế Yết-đế, Ba-la yết-đế, Ba la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.”, để tiêu trừ vô-minh vi tế của “A-LẠI-DA THỨC” (sở tri chướng), mà thành tựu “ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ” hay “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ”, TỨC THÀNH PHẬT.
"NIỆM PHẬT" y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà đắc “PHẬT QỦA”,
Thế Nào Gọi Là Xả Ly Tâm ?
Nầy Diệu-Nguyệt, người Niệm Phật trong khi xưng niệm danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, phải phát khởi cái Tâm thái lìa bỏ tất cả. Sao gọi là lìa bỏ ? Lìa bỏ nghĩa là không trụ tướng mà niệm Phật, không nắm giữ mà niệm Phật, không tương ưng mà niệm Phật, không đối đãi mà niệm Phật, không chống trái mà niệm Phật, không cầu mong mà niệm Phật, không nhiễm duyên mà niệm Phật như thế gọi là lìa bỏ.
Người niệm Phật chỉ buộc tâm và ý vào danh hiệu Phật, chăm chú lắng nghe, mỗi câu rõ ràng, mỗi niệm phân minh. Quên cả thân, quên cả cảnh, quên cả cái ý thức tự biết Ta đang niệm Phật. Như thế mới gọi là lìa bỏ.
Lìa bỏ khổ, tập, diệt, đạo mà niệm Phật.
Lìa bỏ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà niệm Phật.
Lìa bỏ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ mà niệm Phật.
Lìa bỏ tín giải, hành chứng mà niệm Phật.
Lìa bỏ từ bi, hỷ xả mà niệm Phật.
Lìa bỏ không, vô thường, vô ngã mà niệm Phật.
Lìa bỏ bồ đề, niết bàn, giải thoát, giải thoát tri kiến, mà niệm Phật.
Lìa bỏ tất cả các pháp hữu vi, tất cả các pháp vô vi mà niệm Phật.
Lìa bỏ ngã và ngã sở.
Lìa bỏ luôn cả ý tưởng cầu mong vãng sanh, chí nguyện độ sanh, ý hướng thành Phật mà niệm Phật.
Niệm Phật với tâm Xả Ly như thế, mới được gọi là chân chánh niệm Phật
TỊNH TĨNH NIỆM PHẬT
Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.
PHẨM THỨ BẢY
KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT
Và
ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN
( Chuyên tụng VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHƠN NGÔN hay BẠT NHỨT-THIẾT NGHIỆP-CHƯỚNG CĂN BỔN ĐẮC SANH TỊNH-ĐỘ ĐÀ-RA-NI cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.
Về cách trì niệm, tệ nhơn lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.
2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.
4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, tệ nhơn đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm
NIỆM PHẬT ĐỂ THÂM NHẬP NHƯ-LAI-TẠNG TÂM
THÌ KHÔNG DÍNH MẮC VÀO "HIỆN TẠI LẠC TRÚ"
"Đương niệm tức vô niệm"
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
Chứng lý pháp thân hiện
Kệ Niệm Phật
(Hòa Thượng Thích Trí Tịnh soạn)
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
Tâm tiếng hiệp khắn nhau (Hạ Thủ Công Phu)
Thường niệm cho rành rõ
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ (Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
Nhất tâm Phật hiện tiền (Sự Nhất Tâm)
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm (Lý nhất Tâm)
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
Cầu đài sen thượng phẩm (Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Trưởng-giả Diệu-Nguyệt hỏi rằng:
Bạch đức Thế-Tôn, con thường tin và nghĩ rằng Niệm Phật tức là thành Phật ngay trong đời nầy. Thế thì tại sao hôm nay đức Thế-Tôn lại ân cần khuyên bảo chúng con phải phát nguyện vãng sanh Cực-Lạc quốc độ ở Tây phương ?"
Đức Thích-Ca đáp rằng:
Diệu-Nguyệt cư sĩ, nên biết rằng được vãng sanh Cực-Lạc thì không bao giờ trở lại địa vị phàm phu với thân xác ngũ uẩn nữa. Do đó, mới gọi là Bất-thối-chuyển. Từ đó về sau, dần dần thành tựu mười thứ Trí-lực, mười tám pháp Bất-cộng, năm nhãn, sáu thông, vô lượng Đà-ra-ni, vô số Tam-muội, thần thông du hí, biện tài vô ngại ... đầy đủ bao nhiêu công đức vô lậu của Đại Bồ-Tát, cho đến khi đắc quả Phật. Bởi vậy mà Ta, Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn hôm nay trân trọng xác quyết rằng :
"VÃNG SANH ĐỒNG Ý NGHĨA VỚI THÀNH PHẬT, VÌ VÃNG SANH TỨC LÀ THÀNH PHẬT."
Cũng chỉ là một pháp Niệm Phật, nhưng kẻ hạ liệt chí nhỏ, mong cầu xuất ly tam giới, thì niệm Phật chỉ là pháp Thanh-văn, Duyên-giác. Như-Lai vì họ mà dạy HIỆN TẠI LẠC TRÚ.
“ Riêng chư vị Bồ-Tát sơ phát tâm, dùng niệm Phật để thâm nhập Như-Lai
tạng tâm thì không dính mắc vào hiện tại. (HIỆN TẠI LẠC TRÚ)
Tịnh Độ
Thập Nghi Luận
ĐỜI TÙY, THIÊN THAI TRÍ GIẢ ĐẠI SƯ SOẠN
I- Hỏi:- Chư Phật Bồ Tát lấy đại bi làm sự nghiệp. Vậy người đã phát tâm Bồ Đề, nếu muốn cứu độ chúng sanh, chỉ nên nguyện sanh trong ba cõi, ở nơi đời ngũ trược, vào ba đường ác mà cứu khổ cho các hữu tình. Tại sao chúng ta đã học theo Phật, lại xa rời chúng sanh, tự sống riêng một cuộc đời yên ổn? Đó có phải là thiếu lòng từ bi, chuyên lo tự lợi và trái với đạo Bồ Đề chăng?
- Đáp: Bồ Tát có hai hạng.
Thứ nhất, bậc tu Bồ Tát Đạo đã lâu, chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Với những vị nầy, đem lời đó trách thì đúng.
Thứ nhì, bậc chưa chứng Vô Sanh và hàng phàm phu mới phát tâm Bồ Tát. Những vị sau nầy cần phải thường không rời Phật, mới thành tựu được nhẫn lực và có thể ở trong ba cõi, vào nơi đời ác để cứu độ chúng sanh. Cho nên Luận Trí Độ nói: “Hạng phàm phu còn đủ mọi sự ràng buộc, dù có lòng đại bi, nhưng vội muốn sanh trong đời ác để cứu chúng hữu tình khổ não, đó là điều không hợp lý.” Tại sao thế? Vì trong cõi đời ác trược, nghiệp phiền não mạnh mẽ lẫy lừng. Khi ấy, mình đã không có nhẫn lực, tất tâm sẽ tùy cảnh mà chuyển, rồi bị sắc, thanh danh, lợi trói buộc, sanh ra đủ nghiệp tham, sân, si. Chừng đó tự cứu đã không rồi, nói chi là cứu chúng sanh? Giả sử được sanh trong cõi người thì cảnh xấu ác kẻ tà ngoại dẫy đầy, người chánh chơn khó gặp, cho nên Phật Pháp không dễ gì nghe, Thánh Đạo không dễ gì chứng.
Nếu người nhân bố thí, trì giới, tu phước được làm bậc quyền quý, mấy ai không mê đắm cảnh giàu sang, buông lung trong trường dục lạc?
Lúc đó dù có bậc Thiện Tri Thức khuyên bảo, họ cũng không chịu tin làm theo, lại vì muốn thỏa mãn lòng tham dục của mình, nương quyền thế sẵn có, gây ra nhiều tội nghiệp. Đến khi chết rồi, bị đọa vào tam đồ trải qua vô lượng kiếp, khi khỏi tam đồ, sanh được làm người, phải thọ thân bần tiện; nếu không gặp Thiện Tri Thức lại mê lầm gây tội ác, rồi bị đọa nữa. Từ trước đến nay chúng sanh luân hồi đều ở trong tình trạng ấy. Đây gọi là Nan Hành Ðạo vậy.
Kinh Duy Ma cũng nói: “Chính bịnh của mình còn không tự cứu được, đâu có thể cứu được bịnh cho kẻ khác.”
Luận Trí Độ cũng nói: “Ví như hai người, mỗi kẻ đều có thân nhân bị nước lôi cuốn; một người tánh gấp nhảy ngay xuống nước để cứu vớt, nhưng vì thiếu phương tiện nên cả hai đều bị đắm chìm. Một người sáng tỉnh hơn vội chạy đến lấy thuyền bơi ra cứu vớt, nên cả hai đều không bị nạn trầm nịch.” Bậc Bồ Tát mới phát tâm vì chưa đủ nhẫn lực nên không thể cứu chúng sanh, cũng như người trước. Những vị Bồ Tát thường gần gũi Phật chứng được Vô Sanh Nhẫn, mới có thể nhập thế và cứu độ vô lượng chúng sanh cũng như người sau. Như trẻ thơ không nên rời mẹ, nếu rời mẹ thì hoặc rơi vào hầm giếng, té xuống sông đầm, hoặc đói khát mà chết. Lại như chim non chưa đủ lông cánh, chỉ có thể nhảy chuyền theo cành cây; đợi chừng nào lông cánh đầy đủ, mới có thể bay xa, thong thả vô ngại. Phàm phu không nhẫn lực, chỉ nên chuyên niệm Phật A Di Đà cho được nhất tâm, đợi khi tịnh nghiệp thành tựu, lúc lâm chung sẽ được Phật tiếp dẫn vãng sanh, quyết định không nghi. Khi thấy Đức A Di Đà chứng quả Vô Sanh rồi, chừng ấy sẽ cỡi thuyền Pháp Nhẫn vào biển luân hồi cứu vớt chúng sanh, mặc ý làm vô biên Phật sự.
Cho nên bậc bi tâm hành giả, như muốn giáo hóa nơi địa ngục, vào biển trầm luân, nên chú ý đến nhân duyên cầu sanh Tịnh Độ. Điều nầy Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận gọi là Dị Hành Đạo.
Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
(Vào đêm RẰM, ngày 15/5/1989 Âm lịch (nhằm ngày KỶ DẬU, tháng CANH NGỌ, năm KỶ TỴ), sau thời khóa, HT THÍCH THIỀN-TÂM bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là ẨN-TU NGẪU VỊNH.)
HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.
(72 Tiết
chung góp lại)
TIẾT 1.-
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
CỦA TRIỆT NGỘ ÐẠI SƯ
HÒA-THƯỢNG THÍCH-THIỀN-TÂM DỊCH TỪ
HÁN-VĂN RA VIỆT-VĂN
1) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
2) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
3) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
4) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
5) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
6) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
7) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
8) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
9) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
10) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
11) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
12) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
13) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
14) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
15) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
16) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
17) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
18) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
19) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
20) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
21) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
22) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
23) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
24) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
25) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
26) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
27) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
28) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
29) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
30) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
31) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
32) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
33) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
34) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
35) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
36) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
37) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
38) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
39) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
40) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
41) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
42) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
43) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
44) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
45) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
46) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
47) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
48) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
49) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
50) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
51) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
52) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
53) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
54) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
55) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
56) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
57) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
58) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
59) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
60) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
61) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
62) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
63) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
64) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
65) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
66) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
67) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
68) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
69) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
70) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
71) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
72) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
73) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
74) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
75) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
76) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
77) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
78) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
79) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
80) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
81) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
82) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
83) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
84) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
85) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
86) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
87) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
88) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
89) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
90) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
91) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
92) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
93) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
94) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
95) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
96) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
97) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
98) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
99) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
100) |
Nhứt cú Di Ðà
|
Một câu A Di Ðà |
CHUNG
Comments
Post a Comment